Đề cương tuyên truyền Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022

Ngày 14 tháng 11 năm 2022, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XV đã thông qua  Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022 với   465 đại biểu Quốc hội tán thành thông qua Luật, chiếm 93,37%. Và ngày 01/11/2023, Chính phủ ban hành Nghị định 76/2023/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022, có hiệu lực ngày 25/12/2023

Decuongtuyentruyen.com biên soạn và giới thiệu tới bạn đọc đề cương tuyên truyền Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022  và Nghị định 76/2023/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022 gồm có 2 phần: Phần 1. Sự cần thiết ban hành Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022. Phần 2. Những nội cơ bản và điểm mới của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022

Phần 1. Sự cần thiết ban hành Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình được Quốc hội khóa XII thông qua ngày 21 tháng 11 năm 2007, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2008. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình được ban hành đã thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc giải quyết vấn nạn bạo lực gia đình, hướng tới xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, bình đẳng, hạnh phúc cũng như sự nghiêm túc, chủ động của Việt Nam trong việc thực hiện các điều ước và cam kết quốc tế đã tham gia.

Slide bài giảng Luật Phòng chống bạo lực gia đình
Slide bài giảng Luật Phòng chống bạo lực gia đình

Sau gần 15 năm thực hiện, Luật đã tạo chuyển biến tích cực về nhận thức trong phòng, chống bạo lực gia đình, góp phần bảo vệ người bị bạo lực gia đình, xử lý các hành vi bạo lực gia đình, vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình, nâng cao bình đẳng giới trong gia đình. Các cấp ủy, tổ chức Đảng và lãnh đạo chính quyền các cấp đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo triển khai các giải pháp phòng, chống bạo lực gia đình. Nhiều địa phương tổ chức triển khai các mô hình phòng, chống bạo lực gia đình sáng tạo, năng động, phát huy hiệu quả tốt cũng như huy động nguồn lực xã hội tham gia công tác phòng, chống bạo lực gia đình.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, bạo lực gia đình vẫn còn là một vấn đề nhức nhối, nan giải ở Việt Nam. Nhiều vụ việc xuất hiện những hành vi bạo lực gia đình có mức độ gây hại nghiêm trọng, diễn biến phức tạp, tinh vi, khó lường và khó xử lý bằng các quy định pháp luật hiện hành. Dữ liệu thống kê, nghiên cứu về bạo lực gia đình do các cơ quan, tổ chức thực hiện cho thấy những bức tranh hết sức phức tạp, thậm chí còn mâu thuẫn với nhau. Theo số liệu thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổng hợp từ báo cáo của các tỉnh thành, trong giai đoạn 2009 – 2021, tổng số vụ bạo lực gia đình các địa phương đã phát hiện trên cả nước là 324.641 vụ. Trong giai đoạn này, số vụ bạo lực gia đình giảm dần qua các năm: năm 2009 là 53.206 vụ, giảm xuống còn 19.274 vụ trong năm 2015 và 4.967 vụ trong năm 2021. Trong khi đó, Điều tra quốc gia bạo lực với phụ nữ được Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Tổng cục Thống kê, Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam thực hiện năm 2019, công bố năm 2020 cho thấy, năm 2019, có 31,6% phụ nữ phải chịu ít nhất một hình thức bạo lực trong 12 tháng (kể từ lúc điều tra), cứ 3 phụ nữ thì có gần 1 người (32%) bị chồng bạo lực thể xác/hoặc bạo lực tình dục. Đáng chú ý có 90,4% phụ nữ bị chồng bạo lực thể xác và/hoặc tình dục không tìm kiếm sự giúp đỡ, chỉ có 4,8% tìm kiếm sự giúp đỡ của công an. Kết quả điều tra này cho thấy năm 2019, bạo lực gia đình với phụ nữ gây thiệt hại 1,8% GDP (tăng 0,2% so với năm 2012). So với số liệu của cuộc Điều tra được thực hiện năm 2009 thì số vụ bạo lực gia đình ở Việt Nam còn tăng lên[1].

Nghiên cứu về bạo lực gia đình do Viện Nghiên cứu gia đình và Giới thực hiện năm 2019 chỉ ra rằng 69% trẻ em cho biết đã từng bị bố mẹ xử phạt bằng bất kỳ hình thức nào như đánh, đấm, đạp, tát… và 31,6% cha mẹ thừa nhận họ đã xử phạt con bằng hình thức bạo lực. Đáng chú ý, trẻ em cũng là nhóm xã hội có nguy cơ cao bị xâm hại tình dục trong gia đình, theo đó trong số trẻ bị xâm hại tình dục có tới 21,3% bị chính người thân trong gia đình xâm hại. Cũng theo nghiên cứu này, bạo lực gia đình với người cao tuổi diễn ra khá phổ biến ở nhiều địa phương. Các hành vi bạo lực với người cao tuổi như “bỏ mặc không quan tâm về tình cảm” chiếm 10,2%, “không quan tâm, chăm sóc ăn uống, thuốc men” chiếm 8,5% bên cạnh các hành vi khác như bị ép buộc lao động, bị tranh giành tài sản thừa kế, bị đập phá tài sản, tịch thu tiền, bị coi thường, sỉ nhục, quát mắng, dọa nạt[2].

Bạo lực gia đình cũng được xem là một trong những tác nhân chính làm tan vỡ hôn nhân, hạnh phúc gia đình. Từ ngày 01/7/2008 đến ngày 31/7/2018, Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý theo thủ tục sơ thẩm 1.422.067 vụ án ly hôn, giải quyết 1.384.660 vụ, đạt tỷ lệ 97,4%, còn lại 37.407 vụ đang trong quá trình giải quyết. Trong số 1.384.660 vụ án ly hôn Tòa án đã giải quyết, có 1.060.767 vụ xuất phát từ nguyên nhân bạo lực gia đình như: bị đánh đập, ngược đãi; vợ hoặc chồng nghiện ma túy, rượu chè, cờ bạc; ngoại tình (chiếm 76,6% các vụ án ly hôn). Báo cáo của ngành Tư pháp cho thấy chỉ riêng năm 2014 tiếp nhận hòa giải 31.528 vụ việc bạo lực gia đình, năm 2015 là 33.966 vụ.

Vấn nạn bạo lực gia đình có xu hướng trầm trọng hơn, đa dạng hơn, phức tạp hơn đã và đang để lại những hậu quả thương tâm, đau xót cho nhiều gia đình, tạo ra những thiệt hại to lớn cho toàn xã hội. Nếu không được giải quyết kịp thời, bạo lực gia đình sẽ đe doạ đến sự phát triển bền vững của gia đình, làm xói mòn các giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc, làm suy yếu động lực phát triển và là rào cản đối với tiến trình phát triển bền vững của đất nước.

Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng nêu trên là do các quy định, chính sách trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình hiện hành còn tồn tại nhiều bất cập, không phù hợp với thực tiễn phát triển của xã hội Việt Nam giai đoạn hiện nay. Quá trình thi hành Luật cũng xuất hiện nhiều hạn chế, đặc biệt là vấn đề trách nhiệm và công tác phối hợp liên ngành trong phòng, chống bạo lực gia đình. Điều này một phần xuất phát từ công tác tổ chức, triển khai thực hiện của các địa phương, song cũng do Luật hiện hành còn thiếu các nội dung, chính sách, quy định phù hợp. Bên cạnh đó, nhiều chủ trương, chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước được ban hành trong thời gian qua cũng cần phải được cụ thể hóa trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.

Từ những lý do nêu trên cho thấy Luật Phòng, chống bạo lực gia đình hiện hành cần được sửa đổi, bổ sung.

Phần 2. Những nội cơ bản và điểm mới của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022

 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022 gồm 6 chương, 56 điều, quy định về phòng ngừa, ngăn chặn, bảo vệ, hỗ trợ, xử lý vi phạm trong phòng, chống bạo lực gia đình; điều kiện bảo đảm phòng, chống bạo lực gia đình; quản lý Nhà nước và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong phòng, chống bạo lực gia đình. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2023.

1. Nội dung cơ bản Luật Phòng, chống bạo lực gia đình

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đáp ứng yêu cầu phát sinh trong thực tiễn và khắc phục những bất cập trong các quy định của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007. Luật đã bám sát phương pháp tiếp cận quyền con người, bảo đảm quyền con người, đặc biệt là đối tượng đặc thù như phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật, ưu tiên nguyện vọng chính đáng, sự an toàn là trên hết của người bị BLGĐ, đồng thời tôn trọng các quyền của công dân khi xử lý các hành vi vi phạm về BLGĐ. Các yếu tố về văn hóa, gia đình, đặc điểm tâm lý của các nhóm đối tượng và đặc thù vùng miền, dân tộc cũng đã được quan tâm, xem xét khi thiết kế các quy định để bảo đảm tính hiệu quả, nghiêm minh, góp phần gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình, dân tộc, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Chương I (Những quy định chung): Chương này quy định về phạm vi điều chỉnh, giải thích từ ngữ, hành vi BLGĐ; nguyên tắc phòng, chống BLGĐ; các hành vi bị nghiêm cấm trong phòng, chống BLGĐ; chính sách của Nhà nước về phòng, chống BLGĐ; tháng hành động quốc gia phòng, chống BLGĐ; hợp tác quốc tế về phòng, chống BLGĐ; quyền và trách nhiệm của người bị BLGĐ; trách nhiệm của người có hành vi BLGĐ; trách nhiệm của thành viên gia đình trong phòng, chống BLGĐ; quyền và trách nhiệm của cá nhân trong phòng, chống BLGĐ.

Chương II (Phòng ngừa BLGĐ): Chương này quy định về mục đích, yêu cầu trong thông tin, truyền thông, giáo dục; nội dung thông tin, truyền thông, giáo dục; hình thức thông tin, truyền thông, giáo dục; tư vấn về phòng, chống BLGĐ; hòa giải trong phòng, chống BLGĐ; chủ thể tiến hành hòa giải.

Chương III (Bảo vệ, hỗ trợ, xử lý vi phạm trong phòng, chống BLGĐ): Chương này quy định về báo tin, tố giác về hành vi BLGĐ; xử lý tin báo, tố giác về hành vi BLGĐ; sử dụng âm thanh, hình ảnh về hành vi BLGĐ; biện pháp ngăn chặn hành vi BLGĐ và bảo vệ, hỗ trợ người bị BLGĐ; buộc chấm dứt hành vi BLGĐ; yêu cầu người có hành vi BLGĐ đến trụ sở Công an xã nơi xảy ra hành vi BLGĐ; cấm tiếp xúc theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã; cấm tiếp xúc theo quyết định của Tòa án; giám sát việc thực hiện quyết định cấm tiếp xúc; bố trí nơi tạm lánh và hỗ trợ nhu cầu thiết yếu; chăm sóc, điều trị người bị BLGĐ; trợ giúp pháp lý và tư vấn tâm lý, kỹ năng để ứng phó với BLGĐ; giáo dục, hỗ trợ chuyển đổi hành vi BLGĐ; góp ý, phê bình người có hành vi BLGĐ trong cộng đồng dân cư; thực hiện công việc phục vụ cộng đồng; bảo vệ người tham gia phòng, chống BLGĐ và người báo tin, tố giác về BLGĐ; cơ sở trợ giúp phòng, chống BLGĐ; địa chỉ tin cậy; cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; cơ sở trợ giúp xã hội, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; cơ sở khác tham gia trợ giúp phòng, chống BLGĐ; cơ sở cung cấp dịch vụ trợ giúp phòng, chống BLGĐ; xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống BLGĐ.

  Chương IV (Điều kiện bảo đảm phòng, chống BLGĐ): Chương này quy định về kinh phí phòng, chống BLGĐ; cơ sở dữ liệu về phòng, chống BLGĐ; phối hợp liên ngành về phòng, chống BLGĐ; bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng tham gia phòng, chống BLGĐ.

  Chương V (Quản lý Nhà nước và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức về phòng, chống BLGĐ): Chương này quy định nội dung quản lý nhà nước về phòng, chống BLGĐ; trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống BLGĐ; trách nhiệm của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp; trách nhiệm của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp; trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên; trách nhiệm của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; trách nhiệm của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế.

          Chương VI (Điều khoản thi hành): Chương này quy định về việc sửa đổi, bổ sung Điều 135 của Bộ Luật Tố tụng dân sự và hiệu lực thi hành.

2. Những điểm mới của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (sửa đổi)

Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (sửa đổi) đã có nhiều điểm mới phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Một số điểm mới tập trung vào các nội dung sau:

a) Tiếp cận dựa trên quyền con người và lấy người bị BLGĐ là trung tâm

Sửa đổi, bổ sung các hành vi BLGĐ; sửa đổi, bổ sung nhóm đối tượng được áp dụng tương tự; bổ sung quy định để tăng tính khả thi áp dụng Luật đối với người nước ngoài cư trú ở Việt Nam.

b) Thực hiện phòng ngừa BLGĐ, trong phòng có chống, trong chống có phòng

 Sửa đổi, bổ sung quy định về thông tin, truyền thông, giáo dục; nội dung tư vấn, đối tượng cần tập trung tư vấn và quy định trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong việc bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng trong phòng, chống BLGĐ; sửa đổi quy định về hòa giải nhằm tránh lợi dụng hòa giải để trốn tránh xử lý hành vi BLGĐ; bổ sung “Tổng đài điện thoại quốc gia về phòng, chống BLGĐ”,  trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã trong xử lý tin báo, tố giác về hành vi BLGĐ và sử dụng âm thanh, hình ảnh về hành vi BLGĐ.

c) Sửa đổi, bổ sung các biện pháp bảo vệ, hỗ trợ, xử lý vi phạm trong phòng, chống BLGĐ để khắc phục những bất cập của Luật hiện hành, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn

Bổ sung biện pháp yêu cầu người có hành vi BLGĐ đến trụ sở Công an xã nơi xảy ra hành vi BLGĐ; thẩm quyền cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã và Tòa án tự mình ban hành quyết định cấm tiếp xúc, đơn giản hóa thủ tục; quy định về giám sát việc thực hiện quyết định cấm tiếp xúc; biện pháp giáo dục, hỗ trợ chuyển đổi hành vi BLGĐ; biện pháp “thực hiện công việc phục vụ cộng đồng”; bảo vệ người tham gia phòng, chống BLGĐ và người báo tin, tố giác về BLGĐ.

d) Khuyến khích xã hội hóa công tác phòng, chống BLGĐ, đồng thời nâng cao trách nhiệm của Nhà nước trong bố trí nguồn lực cho phòng, chống BLGĐ để hướng tới xây dựng và phát triển các cơ sở trợ giúp về phòng, chống BLGĐ hoạt động chuyên nghiệp, hiệu quả

Quy định về cơ sở trợ giúp phòng, chống BLGĐ, cơ sở cung cấp dịch vụ trợ giúp phòng, chống BLGĐ; bổ sung các quy định về điều kiện bảo đảm thực hiện phòng, chống BLGĐ như quy định về kinh phí phòng, chống BLGĐ, cơ sở dữ liệu về phòng, chống BLGĐ, phối hợp liên ngành về phòng, chống BLGĐ, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng tham gia phòng, chống BLGĐ.

đ) Sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm của Chính phủ, cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống BLGĐ và cơ quan, tổ chức có liên quan trong phòng, chống BLGĐ

Bổ sung trách nhiệm của Chính phủ định kỳ 02 năm một lần hoặc đột xuất báo cáo Quốc hội về công tác phòng, chống BLGĐ; trách nhiệm của các cơ quan trong thực hiện nhiệm vụ phòng, chống BLGĐ.

* Các điều kiện bảo đảm thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (sửa đổi)

Luật khuyến khích xã hội hóa công tác phòng, chống BLGĐ, đồng thời nâng cao trách nhiệm của Nhà nước trong bố trí nguồn lực cho phòng, chống BLGĐ để hướng tới xây dựng và phát triển các cơ sở trợ giúp về phòng, chống BLGĐ hoạt động chuyên nghiệp, hiệu quả.

Cụ thể, Luật đã quy định các điều kiện sau:

– Về cơ sở trợ giúp phòng, chống BLGĐ, cơ sở cung cấp dịch vụ trợ giúp phòng, chống BLGĐ (Điều 35).

– Bổ sung các quy định về điều kiện bảo đảm thực hiện phòng, chống BLGĐ như quy định về kinh phí phòng, chống BLGĐ (Điều 42).

– Cơ sở dữ liệu về phòng, chống BLGĐ (Điều 43).

– Phối hợp liên ngành về phòng, chống BLGĐ (Điều 44).

– Bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng tham gia phòng, chống BLGĐ (Điều 45).

– Luật cũng bổ sung quy định về trách nhiệm của Chính phủ, cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống BLGĐ và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong phòng, chống BLGĐ (Điều 47, Điều 48, Điều 49, Điều 50, Điều 51, Điều 52, Điều 53, Điều 54).

Rubi

Giới thiệu Đề cương Tuyên truyền

Đề cương tuyên truyền pháp luật (trang web thành viên của https://trangtinphapluat.com): Nơi cung cấp các đề cương tuyên truyền, nghiệp vụ tuyên truyền pháp luật Liên hệ: kesitinh355@gmail.com. Điện thoại, Zalo: 0935634572

3 comments

  1. Lê Thị Thúy

    Tôi đọc và thấy trang tin pháp luật này rất hay và bổ ích, tôi muốn tham gia thành viên để theo dõi,.

  2. Lê Thị Thúy

    Tôi muốn trở thành thành viên của trang này

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *