Đề cương tuyên truyền Luật Tần số vô tuyến điện năm 2022

Ngày 09 tháng 11 năm 2022, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tần số vô tuyến điện (Luật Tần số vô tuyến điện năm 2022), có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2023..

Decuongtuyentruyen.com biên soạn và giới thiệu tới bạn đọc đề cương tuyên truyền Luật Tần số vô tuyến điện năm 2022 gồm có 2 phần: Phần 1. Sự cần thiết ban hành Luật Tần số vô tuyến điện năm 2022. Phần 2. Những nội cơ bản và điểm mới của Luật Tần số vô tuyến điện năm 2022.

Phần 1. Sự cần thiết ban hành Luật Tần số vô tuyến điện năm 2022

Luật Tần số vô tuyến điện được Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ 6 ngày 23/11/2009 và Chủ tịch nước công bố theo Lệnh số 19/2009/L-CTN ngày 04/12/2009 có ý nghĩa to lớn trong việc quản lý hoạt động và phát triển lĩnh vực vô tuyến điện, đánh dấu một mốc quan trọng về sự nỗ lực của ngành thông tin và truyền thông nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý cho lĩnh vực thông tin vô tuyến điện của đất nước.

Triển khai thực hiện Luật, Bộ TTTT và các cơ quan có liên quan đã tổ chức xây dựng các văn bản để ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành gồm: 08 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và 63 Thông tư.

Đề cương tuyên truyền Luật Tần số vô tuyến điện năm 2022
Đề cương tuyên truyền Luật Tần số vô tuyến điện năm 2022

Luật Tần số vô tuyến điện và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đã góp phần thúc đẩy sự phát triển  thông tin vô tuyến điện, thúc đẩy ứng dụng các công nghệ hiện đại sử dụng hiệu quả tài nguyên tần số vô tuyến điện đồng thời giữ vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về tần số vô tuyến điện.

Thông tin vô tuyến đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với sự phát triển của đất nước trong giai đoạn phát triển kinh tế số. Đặc biệt, đối với tiến trình xây dựng, phát triển nền kinh tế số, xã hội số, Internet vạn vật (IoT) và Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, hạ tầng viễn thông nói chung và thông tin vô tuyến điện nói riêng chuyển từ vai trò cung cấp dịch vụ sang vai trò làm hạ tầng số cho nền kinh tế số.

Văn kiện Đại hội 13 của Đảng đã nêu rõ: xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội; chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số; quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên; hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững.

Trước đó, Nghị quyết số 52/NQ-TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã đưa ra mục tiêu “đến năm 2030 mạng di động 5G phủ sóng toàn quốc, mọi người dân được truy cập Internet băng thông rộng với chi phí thấp”.

Để tiếp tục đạt được mục tiêu phát triển 5G, đồng thời phát triển thông tin vô tuyến điện, góp phần đạt được mục tiêu của Nghị quyết về chỉ số đổi mới sáng tạo, phát triển mạnh mẽ kinh tế số, về phát triển khoa học – công nghệ; khai thác hiệu quả tài nguyên, nguồn lực, trong đó có tài nguyên tần số, Bộ TTTT thấy rằng các chủ trương này cần được thể chế kịp thời trong Luật Tần số vô tuyến điện, đồng thời xử lý những vấn đề bất cập, phát sinh từ thực tiễn quản lý như việc quản lý, sử dụng tần số có giá trị thương mại cao; việc quản lý, sử dụng tần số trong sản xuất, nghiên cứu khoa học; việc quản lý đào tạo, cấp chứng chỉ vô tuyến điện viên, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ chủ quyền về tần số và quỹ đạo vệ tinh … Bên cạnh đó, sau khi Luật Tần số vô tuyến điện ra đời đến nay, hệ thống pháp luật đã có nhiều thay đổi, nhiều luật mới có liên quan đến nội dung của Luật Tần số vô tuyến điện đã được ban hành, trong đó có Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017, Luật Đầu tư năm 2020, Luật Đấu giá tài sản 2016… Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung Luật Tần số vô tuyến điện là thực sự cần thiết. Cụ thể như sau:

  1. Công tác cấp phép sử dụng tần số vô tuyến điện trong thời gian qua đã bộc lộ một số hạn chế và thiếu đồng bộ trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể:

1.1. Về tần số được đấu giá, thi tuyển quyền sử dụng tần số vô tuyến điện

Luật Tần số vô tuyến điện quy định đấu giá, thi tuyển quyền sử dụng tần số vô tuyến điện đối với các băng tần, kênh tần số có giá trị thương mại cao, có nhu cầu sử dụng vượt quá khả năng phân bổ xác định trong quy hoạch tần số vô tuyến điện; Thủ tướng Chính phủ quyết định băng tần, kênh tần số được đấu giá, thi tuyển theo từng thời kỳ. Với quy định mang tính định tính như vậy sẽ rất khó để Thủ tướng Chính phủ quyết định băng tần nào được đấu giá, băng tần nào được thi tuyển.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy băng tần được sử dụng để cung cấp dịch vụ thông tin di động mặt đất công cộng được nhiều nước trên thế giới đấu giá hoặc thi tuyển vì đây là băng tần “quý hiếm”, có thể mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp được quyền khai thác, sử dụng băng tần đó. Đối với băng tần, kênh tần số khác, sử dụng trong các hệ thống vô tuyến điện như mạng taxi, hàng không, hàng hải, dẫn đường, định vị, nghiệp dư, … chỉ phục vụ thông tin liên lạc, điều hành của chính tổ chức, cá nhân đó thường được các nước cấp trực tiếp, không đấu giá, thi tuyển. Đối với kênh tần số để cung cấp dịch vụ truyền dẫn phát sóng phát thanh, truyền hình rất ít nước (Mỹ, New Zealand) đấu giá, đồng thời việc đấu giá quyền sử dụng tần số thường gắn với quyền cung cấp nội dung, còn ở Việt Nam quyền làm nội dung là giấy phép báo chí riêng.

Tại Việt Nam, băng tần được sử dụng để cung cấp dịch vụ thông tin di động mặt đất công cộng cũng rất khan hiếm, trong khi các băng tần, kênh tần số khác vẫn có thể đáp ứng nhu cầu sử dụng của các tổ chức, cá nhân.

Vì vậy, với loại băng tần đã rõ, cần cấp phép theo cơ chế thị trường để quản lý tài nguyên hiệu quả, công khai, minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế như băng tần được sử dụng để cung cấp dịch vụ thông tin di động mặt đất công cộng, Bộ TTTT đề nghị quy định ngay trong Luật áp dụng phương thức đấu giá và chỉ thực hiện thi tuyển đối với loại băng tần này khi Nhà nước cần sớm hoàn thành mục tiêu phát triển viễn thông quốc gia (như cần đạt tỷ lệ dân số hoặc diện tích được phủ sóng di động công nghệ mới trong thời hạn nhất định kể từ ngày được cấp phép tần số). Để xử lý các tình huống dự phòng phát sinh, cần đấu giá, thi tuyển các băng tần, kênh tần số khác ngoài băng tần sử dụng để cung cấp dịch vụ thông tin di động mặt đất công cộng, Bộ đề nghị Chính phủ quyết định đấu giá hoặc thi tuyển đổi với từng trường hợp cụ thể.

1.2. Về cấp giấy phép sử dụng băng tần khi giấy phép đã cấp đã được gia hạn tối đa hết thời hạn sử dụng (cấp mới giấy phép)

Theo quy định của Luật Tần số vô tuyến điện, đối với các băng tần có giá trị thương mại cao và nhu cầu sử dụng vượt quá khả năng phân bổ thì sau khi giấy phép đã được gia hạn tối đa hết thời hạn sử dụng có hai hình thức cấp phép là Nhà nước sẽ thu hồi để đấu giá hoặc thi tuyển cho chu kỳ 15 năm tiếp theo của giấy phép. Quy định này sẽ cản trở các doanh nghiệp liên tục đầu tư, phát triển công nghệ mới khi vòng đời công nghệ đang ngày càng ngắn lại, chỉ còn 5 – 7 năm, nên không cải thiện được chất lượng dịch vụ viễn thông, nhất là ở giai đoạn giấy phép sắp hết hạn. Do đó, cần có chính sách xử lý băng tần sau khi giấy phép hết hạn sử dụng hợp lý, phù hợp để khuyến khích, thúc đẩy các doanh nghiệp kinh doanh tốt, cung cấp dịch vụ ổn định cho người sử dụng yên tâm đầu tư dài hạn, đồng thời vẫn đảm bảo các mục tiêu quản lý, khai thác nguồn lực tài chính từ tài sản công có hiệu quả, công khai, minh bạch, đúng pháp luật trong giai đoạn 15 năm tiếp theo của giấy phép.

1.3. Về hạn mức sử dụng tần số trong hoạt động viễn thông

Luật Tần số vô tuyến điện tại Điều 10 quy định nguyên tắc chung khi quy hoạch băng tần: bảo đảm quản lý, sử dụng tần số vô tuyến điện hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm, đúng mục đích; không có quy định về hạn mức tần số mỗi doanh nghiệp được phép nắm giữ đối với băng tần để triển khai mạng viễn thông.

Thực tế, băng tần di động  là đầu vào thiết yếu để doanh nghiệp thông tin di động triển khai mạng lưới, kinh doanh và cung cấp dịch vụ viễn thông cho khách hàng. Doanh nghiệp càng nắm giữ nhiều  băng tần di động thì sẽ càng có lợi thế cạnh tranh trên thị trường viễn thông. Nếu không có chính sách quản lý phù hợp về hạn mức tần số mà một doanh nghiệp được phép nắm giữ đối với các băng tần này thì có thể làm tích tụ tài nguyên ở một hoặc hai doanh nghiệp, gây ra tình trạng độc quyền, làm giảm tính cạnh tranh của thị trường viễn thông. Do vậy, cần thiết phải quy định về hạn mức sử dụng tần số đối với các băng tần di động trong hoạt động viễn thông trong Luật.

1.4. Về thu hồi giấy phép sử dụng tần số vô tuyến điện

Luật Tần số vô tuyến điện đã quy định thu hồi giấy phép trong trường hợp “không nộp phí sử dụng tần số vô tuyến điện và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên do Luật hiện hành chưa có quy định cụ thể thế nào được hiểu là “không nộp”, nộp một phần thì có được coi là “không nộp” hay không và quy trình thủ tục thu hồi giấy phép để đảm bảo sự chặt chẽ, minh bạch của các quy định và không làm ảnh hưởng đến quyền lợi người sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp, cho nên trên thực tế quy định trên không thực thi được. Dự án Luật sửa đổi, bổ sung sẽ làm rõ vấn đề này.

Ngoài ra, để đảm bảo tần số được sử dụng hiệu quả, mang lại lợi ích tốt nhất cho xã hội, cũng cần đưa vào Luật quy định về thu hồi giấy phép trong trường hợp doanh nghiệp không thực hiện cam kết về triển khai mạng viễn thông đối với băng tần được cấp thông qua đấu giá, thi tuyển quyền sử dụng tần số vô tuyến điện và được cấp mới giấy phép sau khi đã được Nhà nước cho phép khắc phục vi phạm cam kết.

1.5. Về cấp phép tần số trong các trường hợp nghiên cứu thử nghiệm công nghệ mới, sản xuất thiết bị để xuất khẩu… không phù hợp với các quy hoạch tần số và các quy chuẩn kỹ thuật

Sóng vô tuyến điện truyền lan tự do trong không gian, không bị giới hạn bởi địa giới hành chính. Vì vậy, để hạn chế nhiễu có hại, Liên minh Viễn thông quốc tế đã quy định mỗi khu vực có quy hoạch sử dụng tần số riêng. Theo đó, một thiết bị vô tuyến điện có thể được phép sử dụng ở quốc gia này nhưng không được phép sử dụng ở quốc gia khác do không phù hợp với quy hoạch. Luật Tần số vô tuyến điện cũng quy định việc quản lý, cấp giấy phép sử dụng tần số vô tuyến điện phải phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật và các quy hoạch tần số vô tuyến điện.

Nhà nước đang khuyến khích các doanh nghiệp nghiên cứu, thử nghiệm thiết bị vô tuyến điện công nghệ mới, đầu tư, sản xuất để xuất khẩu thiết bị vô tuyến điện ra thị trường nước ngoài. Trong một số trường hợp cần thiết (như tổ chức các sự kiện quốc tế), Nhà nước cho phép các tổ chức nước ngoài được mang các thiết bị vô tuyến điện theo quy hoạch, quy chuẩn nước ngoài vào sử dụng tại Việt Nam. Những trường hợp này thường không phù hợp với các quy chuẩn, quy hoạch tần số vô tuyến điện của Việt Nam

Do đó, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của Việt Nam và các doanh nghiệp nước ngoài (Apple, Samsung,..) phát triển hoạt động sản xuất để xuất khẩu, nghiên cứu, thử nghiệm thiết bị vô tuyến điện tại Việt Nam,… thì cần phải sửa đổi quy định của Luật Tần số vô tuyến điện để vừa không hạn chế sự phát triển hoạt động nghiên cứu sản xuất vừa có thể phòng ngừa khả năng can nhiễu với các hệ thống thông tin vô tuyến điện khác.

1.6. Về miễn giấy phép sử dụng tần số vô tuyến điện

Luật Tần số vô tuyến điện quy định miễn giấy phép sử dụng tần số vô tuyến điện đối với thiết bị vô tuyến điện hoạt động ở cự ly ngắn, có công suất hạn chế, ít khả năng gây nhiễu có hại. Thực tế, các tiêu chí miễn cấp phép như cự ly ngắn hay công suất hạn chế là không giống nhau đối với tất cả các thiết bị vô tuyến điện vì mỗi tần số hoạt động khác nhau thì các thông số này là khác nhau. Việc quy định cự ly ngắn/ công suất hạn chế đều với mục tiêu cuối cùng là để đảm bảo thiết bị ít khả năng gây nhiễu có hại. Do đó, Bộ TTTT đề nghị sửa đổi để làm rõ nội dung này.

1.7. Về cấp phép thử nghiệm mạng và dịch vụ viễn thông

Trên thực tế, hoạt động thử nghiệm mạng và dịch vụ viễn thông thường diễn ra trong thời gian ngắn (1-2 năm) để thử nghiệm công nghệ viễn thông mới hoặc thử nghiệm để đánh giá thị trường trước khi chính thức cung cấp dịch vụ viễn thông. Luật Tần số vô tuyến điện chưa có quy định về việc cấp phép tần số trong trường hợp này, do vậy dự án Luật cần bổ sung, hoàn thiện để đồng bộ với Luật Viễn thông.

  1. Cần đồng bộ với quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công 2017 về các khoản thu mà tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ thực hiện khi sử dụng tài nguyên tần số vô tuyến điện

Ngoài phí sử dụng tần số vô tuyến điện và lệ phí cấp giấy phép sử dụng tần số vô tuyến điện, Luật Tần số vô tuyến điện mới chỉ quy định khi cấp phép các băng tần, kênh tần số có giá trị thương mại cao thông qua đấu giá thì thu thêm khoản tiền trúng đấu giá, bản chất là tiền cấp quyền sử dụng tài nguyên theo Luật Quản lý sử dụng tài sản công.

Thực tế, đối với các băng tần dành cho thông tin di động mặt đất công cộng, khi cấp phép thông qua đấu giá, thi tuyển hoặc cấp trực tiếp các nước thường thu một khoản tiền không chỉ để bù đắp chi phí quản lý tần số mà còn thể hiện quyền lợi thế của doanh nghiệp viễn thông trong việc có được phổ tần quý hiếm.

Để khai thác hiệu quả nguồn lực lực tài chính từ tài nguyên tần số vô tuyến điện và để thống nhất giữa Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Phí, lệ phí, Luật Tần số vô tuyến điện, phù hợp với thông lệ quốc tế thì cần bổ sung quy định về khoản thu tiền cấp quyền sử dụng tần số vô tuyến điện, đối tượng phải nộp để phản ánh giá trị kinh tế của phổ tần số vô tuyến điện đồng thời làm rõ  nội hàm khoản phí sử dụng tần số vô tuyến điện để sát thực với các chi phí hoạt động quản lý nhà nước.

  1. Công tác đào tạo và cấp chứng chỉ vô tuyến điện viên chưa phù hợp với chủ trương xã hội hóa giáo dục, cần đẩy mạnh cải cách hành chính

Để phù hợp với quy định của Liên minh Viễn thông quốc tế – ITU, Luật quy định người trực tiếp khai thác đài vô tuyến điện hàng hải, hàng không, vô tuyến điện nghiệp dư phải có chứng chỉ vô tuyến điện viên nhằm bảo đảm thiết bị vô tuyến điện được vận hành an toàn bởi khai thác viên đạt chuẩn mực quốc tế và giao Bộ TTTT trực tiếp thực hiện việc đào tạo và cấp chứng chỉ vô tuyến điện viên. Quy định này chưa thực sự phù hợp với chủ trương xã hội hóa trong giáo dục và đào tạo của Đảng và Nhà nước. Bộ TTTT thấy rằng cần đẩy mạnh cải cách hành chính trong công tác đào tạo, tổ chức thi và cấp chứng chỉ vô tuyến điện viên, thông qua việc giao cho các tổ chức được Bộ TTTT công nhận đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của Chính phủ thực hiện, Bộ chỉ đóng vai trò quản lý, giám sát.

  1. 4. Cần nâng cao hơn nữa trách nhiệm các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quá trình quản lý, khai thác, sử dụng đảm bảo tính an toàn, không can nhiễu và chủ quyền quốc gia về tần số vô tuyến điện

4.1. Để được Liên minh Viễn thông quốc tế – ITU công nhận chủ quyền sử dụng tần số và quỹ đạo vệ tinh (ví dụ tần số vô tuyến điện và quỹ đạo cho vệ tinh Vinasat 1,2) thì phải hoàn thành việc phối hợp tần số vô tuyến điện, quỹ đạo vệ tinh với các nước bị ảnh hưởng. Sau khi tần số vô tuyến điện, quỹ đạo vệ tinh được ITU công nhận, khi vệ tinh của Việt Nam vẫn đang hoạt động trên quy đạo, thì phải tiếp tục bảo vệ để không bị ảnh hưởng bởi các tần số vô tuyến điện, vệ tinh của nước ngoài được đăng ký sau này.

Hiện nay, Luật Tần số vô tuyến điện đã có quy định đầy đủ ở khâu đăng ký ban đầu bao gồm quy định trách nhiệm của cơ quan quản lý và tổ chức, doanh nghiệp trực tiếp thực hiện phối hợp tần số vô tuyến điện, quỹ đạo vệ tinh với tổ chức nước ngoài nhưng chưa có quy định bảo vệ tần số vô tuyến điện và quỹ đạo vệ tinh này sau khi được ITU công nhận. Do đó, đề nghị bổ sung trách nhiệm của Bộ TTTT và của tổ chức sử dụng tần số vô tuyến điện và quỹ đạo vệ tinh trong việc kiểm tra, đánh giá các đăng ký tần số vô tuyến điện và quỹ đạo vệ tinh của nước ngoài có khả năng ảnh hưởng đến việc sử dụng tần số vô tuyến điện và quỹ đạo vệ tinh của Việt Nam.

4.2. Luật Tần số vô tuyến điện chỉ quy định các tổ chức, cá nhân sử dụng tần số vô tuyến điện và thiết bị vô tuyến điện trong khu vực nhiễu có hại có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý chuyên ngành và tạo điều kiện để phát hiện, xử lý nhiễu. Tuy nhiên, trong quá trình xử lý nhiễu có hại những năm qua cho thấy nhiều vụ nhiễu có nguyên nhân từ các thiết bị không phải thiết bị vô tuyến điện mà từ các thiết bị điện, điện tử như nhiễu từ đèn huỳnh quang, máy ép công nghiệp,… trong khi Luật hiện hành chưa có chế tài cho phép cơ quan quản lý tiếp cận nguồn nhiễu này để tìm nguyên nhân và xử lý nhiễu, gây ảnh hưởng tới hoạt động, lợi ích của người sử dụng khác.

Do vậy, để tăng cường hiệu quả của công tác xử lý nhiễu có hại, đề nghị sửa đổi Luật Tần số vô tuyến điện để bổ sung trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sử dụng thiết bị điện, điện tử, thiết bị ứng dụng sóng vô tuyến điện trong việc phối hợp với cơ quan quản lý ở khu vực nhiễu có hại.

4.3. Cần bổ sung quy định cho phép trong trường hợp khẩn cấp liên quan đến chủ quyền, an ninh quốc gia, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an được sử dụng tần số vô tuyến điện vô điều kiện và không phải tuân thủ các quy định về quy hoạch tần số vô tuyến điện và các quy chuẩn kỹ thuật tương ứng; các tổ chức, cá nhân sử dụng tần số cho mục đích kinh tế, xã hội phải dừng sử dụng tức thời và không có điều kiện nếu gây nhiễu có hại hoặc bị gây nhiễu có hại từ các trang bị, khí tài phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh.

4.4. Luật Tần số vô tuyến điện cũng cần sửa đổi để đồng bộ với Luật Xử lý vi phạm hành chính trong việc quy định về sử dụng các phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện vi phạm hành chính về tần số vô tuyến điện, nâng cao hiệu quả của công tác xử lý vi phạm.

Xuất phát từ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn quản lý nêu trên, đồng thời để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, cần thiết phải xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tần số vô tuyến điện.

Phần 2. Những nội cơ bản và điểm mới của Luật Tần số vô tuyến điện năm 2022.

Ngày 09 tháng 11 năm 2022, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XV , với 444/447 đại biểu Quốc hội có mặt biểu quyết tán thành, chiếm 89,16% tổng số đại biểu, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tần số vô tuyến điện, có hiệu lực 01/7/2023.

a) Các quy định liên quan quy hoạch băng tần, cấp phép sử dụng tần số vô tuyến điện và chế tài xử lý vi phạm

(i) Băng tần dành cho thông tin di động mặt đất công cộng rất hữu hạn và là đầu vào thiết yếu để doanh nghiệp thông tin di động triển khai mạng lưới, kinh doanh và cung cấp dịch vụ viễn thông cho khách hàng; doanh nghiệp nắm giữ tỷ lệ băng tần di động lớn thì có lợi thế cạnh tranh và ngược lại. Nếu không có quy định về giới hạn tổng độ rộng băng tần di động một tổ chức được cấp phép thì có thể xảy ra tình trạng một doanh nghiệp sẽ sở hữu quá nhiều tần số (khi được cấp phép ban đầu hoặc khi mua bán chuyển nhượng quyền sử dụng tần số vô tuyến điện được cấp thông qua đấu giá), dẫn tới làm giảm hoặc thậm chí triệt tiêu tính cạnh tranh của thị trường kinh doanh, cung cấp dịch vụ viễn thông.

Tại Việt Nam, quy hoạch băng tần là cơ sở pháp lý để cấp phép sử dụng băng tần cho doanh nghiệp. Tuy nhiên nội hàm quy hoạch băng tần quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 11 Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 chưa bao gồm quy định giới hạn tổng độ rộng băng tần mà một tổ chức được cấp phép sử dụng, để làm cơ sở cho Bộ Thông tin và Truyền thông (Bộ TTTT) phê duyệt quy hoạch băng tần. Đồng thời, nguyên tắc xây dựng quy hoạch tần số vô tuyến điện quy định tại Điều 10 Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 cũng chưa bảo đảm nguyên tắc tránh tích tụ khi lập, phê duyệt quy hoạch để không cản trở việc phát triển thị trường của doanh nghiệp và quyền lợi của người dân.

Ngoài ra, việc cho phép chuyển nhượng tần số vô tuyến điện trong trường hợp đấu giá theo quy định của Luật Tần số vô tuyến điện và thực tế mua bán, sát nhập, hợp nhất giữa các doanh nghiệp viễn thông có thể dẫn đến một hoặc hai doanh nghiệp viễn thông có thể đạt được hầu hết lượng phổ tần.

Trên cơ sở đó, điểm a khoản 2 và điểm a khoản 17 Điều 1 của Luật đã sửa đổi, bổ sung quy định về quy hoạch băng tần để làm rõ trong quy hoạch băng tần có quy định về giới hạn tổng độ rộng băng tần mà một tổ chức được phép sử dụng; bổ sung nguyên tắc quy hoạch tần số vô tuyến điện bảo đảm tránh tích tụ đối với băng tần sử dụng trong hoạt động viễn thông nhằm tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và thúc đẩy phát triển thị trường viễn thông; đồng thời, khoản 11 Điều 1 của Luật đã sửa đổi quy định về chuyển nhượng quyền sử dụng tần số vô tuyến điện được cấp thông qua đấu giá để đảm bảo sau khi nhận chuyển nhượng thì tổng lượng băng tần sau của doanh nghiệp không vượt quá giới hạn tổng độ rộng băng tần mà một tổ chức được cấp phép sử dụng.

Việc bổ sung quy định giới hạn tổng lượng băng tần một doanh nghiệp được phép sử dụng sẽ góp phần hạn chế sự tích tụ tài nguyên tần số trong tay một số doanh nghiệp lớn, có tiềm lực kinh tế mạnh từ đó các doanh nghiệp nhỏ hoặc doanh nghiệp mới có thêm cơ hội được sử dụng băng tần, tăng tính cạnh tranh của thị trường viễn thông, góp phần thúc đẩy thị trường viễn thông phát triển.

(ii) Luật Tần số vô tuyến điện hiện hành quy định ba phương thức: đấu giá, thi tuyển và cấp trực tiếp. Phương thức đấu giá, thi tuyển được áp dụng với trường hợp băng tần, kênh tần số giá trị thương mại cao, nhu cầu vượt quá khả năng phân bổ do Thủ tướng Chính phủ quyết định trong từng thời kỳ. Với quy định này, Thủ tướng Chính phủ không có căn cứ để xác định trường hợp nào băng tần được đấu giá, trường hợp nào thì thi tuyển, loại băng tần nào được đấu giá, thi tuyển. Luật chưa quy định rõ khi doanh nghiệp thử nghiệm mạng và dịch vụ viễn thông có sử dụng tần số vô tuyến điện thì cấp giấy phép sử dụng tần số vô tuyến điện theo phương thức nào. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy băng tần được sử dụng để cung cấp dịch vụ thông tin di động mặt đất công cộng được nhiều nước trên thế giới đấu giá hoặc thi tuyển để lựa chọn doanh nghiệp phù hợp khi phân bổ băng tần “quý hiếm”, có thể mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp được quyền khai thác, sử dụng băng tần đó. Trong đó, đấu giá là phương thức cấp phép được áp dụng phổ biến nhất trên thế giới hiện nay do tính khách quan, minh bạch và phản ánh chính xác nhất giá trị kinh tế của phổ tần; thi tuyển thường được áp dụng trong một số trường hợp nhất định như cần triển khai nhanh công nghệ mới với phạm vi phủ sóng rộng hoặc cần thúc đẩy cạnh tranh. Tại Việt Nam, băng tần được sử dụng để cung cấp dịch vụ thông tin di động mặt đất công cộng cũng rất khan hiếm nhưng chưa được cụ thể hóa trong Luật khi nào áp dụng phương thức cấp phép thông qua đấu giá, khi nào thi tuyển. Ngoài ra, trong bối cảnh Nhà nước đang có chính sách ưu tiên phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh, kết hợp với công nghiệp dân sinh theo hướng lưỡng dụng nhưng Luật hiện hành chưa có quy định về cấp phép sử dụng tần số vô tuyến điện để phát triển kinh tế kết hợp với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.

Trên cơ sở đó, khoản 6 Điều 1 của Luật đã sửa đổi, bổ sung quy định về phương thức cấp phép để làm rõ: (1) Đấu giá đối với băng tần để thiết lập mạng viễn thông công cộng di động mặt đất; băng tần, kênh tần số để thiết lập mạng viễn thông công cộng mặt đất khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông; (2) Thi tuyển các băng tần, kênh tần số này khi cần phủ sóng công nghệ mới trên diện rộng trong một khoảng thời gian nhất định hoặc khi cần có yếu tố mới thúc đẩy cạnh tranh cho hoạt động viễn thông; (3) Cấp trực tiếp các băng  tần, kênh tần số trên khi trong tình trạng khẩn cấp với thời hạn giấy phép không quá 03 năm hoặc khi cấp lại hoặc khi cấp cho doanh nghiệp nhà nước trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh với thời hạn không quá 03 năm để phát triển kinh tế kết hợp với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong trường hợp đặc biệt và cấp trực tiếp đối với các băng tần, kênh tần số còn lại.

Quy định này bảo đảm tính ổn định, khả thi của Luật, điều hành của Chính phủ, góp phần thúc đẩy công tác quản lý, sử dụng băng tần cho thông tin di động theo hướng công khai minh bạch, theo cơ chế thị trường, thúc đẩy doanh nghiệp sử dụng hiệu quả tần số, góp phần thúc đẩy phát triển hạ tầng viễn thông, là tiền đề để phát triển kinh tế số, xã hội số; góp phần xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh hiện đại, lưỡng dụng, vừa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế, xã hội.

(iii) Theo quy định của Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009, đối với các băng tần có giá trị thương mại cao và nhu cầu sử dụng vượt quá khả năng phân bổ thì sau khi giấy phép đã được gia hạn tối đa hết thời hạn sử dụng có hai hình thức cấp phép là Nhà nước sẽ thu hồi để đấu giá hoặc thi tuyển cho chu kỳ 15 năm tiếp theo của giấy phép. Quy định này có nhược điểm là do doanh nghiệp không được cấp lại giấy phép nên sẽ không liên tục đầu tư, phát triển công nghệ mới (hiện nay vòng đời công nghệ đang ngày càng ngắn lại, chỉ còn 5 – 7 năm), vì thế chất lượng dịch vụ viễn thông có thể sẽ không được cải thiện, nhất là ở giai đoạn giấy phép sắp hết hạn. Mặt khác, việc đấu giá, thi tuyển băng tần sau khi hết hạn giấy phép trong trường hợp doanh nghiệp cũ không trúng đấu giá hoặc trúng tuyển băng tần đã được cấp có thể gây lãng phí hạ tầng thụ động mà doanh nghiệp đó đã đầu tư. Theo thống kê, tại Việt Nam, các doanh nghiệp hiện có giấy phép băng tần đã phủ sóng thông tin di động 2G, 3G, 4G đến 99,8% dân số với hơn 300 nghìn trạm phát sóng di động trên cả nước. Nếu thu hồi băng tần sau khi giấy phép hết hạn sẽ không tận dụng được một phần đáng kể hạ tầng thụ động hiện có.

Nhiều nước trên thế giới không tổ chức đấu giá, thi tuyển lại mà cho phép doanh nghiệp được tiếp tục sử dụng kèm theo các điều kiện triển khai mới cho chu kỳ tiếp theo của giấy phép nếu quy hoạch tần số đối với băng tần đó không thay đổi (Anh, New Zealand, Hồng Kong, Pháp, Canada, Mỹ…).

Trên cơ sở đó, khoản 8 Điều 1 của Luật đã bổ sung một điều mới (Điều 20a) quy định về cấp lại giấy phép sử dụng băng tần để cho phép doanh nghiệp được tiếp tục sử dụng băng tần sau khi giấy phép hết hiệu lực nếu đáp ứng các điều kiện để được cấp lại theo quy định của Luật. Quy định này khuyến khích, thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng tần số hiệu quả và hơn yên tâm đầu tư dài hạn.

(iv) Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 chưa có quy định về cam kết triển khai mạng viễn thông đối với các tổ chức được cấp giấy phép sử dụng băng tần. Các băng tần này được sử dụng khi thiết lập mạng viễn thông nhằm cung cấp dịch vụ thông tin di động trên toàn quốc. Hoạt động của mạng tác động trực tiếp đến hàng triệu thuê bao và là một trong các hệ thống thông tin vô tuyến điện cốt lõi của Việt Nam. Trên thực tế, khi cấp phép sử dụng băng tần để triển khai mạng thông tin di động, các nước đều đưa ra các yêu cầu triển khai mạng như: yêu cầu về vùng phủ sóng, số lượng trạm hay thời điểm cung cấp dịch vụ…

Trên cơ sở đó, khoản 5 và khoản 8 Điều 1 của Luật đã bổ sung quy định yêu cầu tổ chức đề nghị cấp phép thông qua đấu giá, thi tuyển hoặc khi được cấp lại giấy phép sử dụng băng tần phải có cam kết triển khai mạng viễn thông; khi vi phạm cam kết thì bị đình chỉ có thời hạn một phần quyền sử dụng tần số vô tuyến điện. Quy định này bảo đảm tần số được sử dụng hiệu quả, đáp ứng mục tiêu phát triển viễn thông của Nhà nước, mang lại lợi ích tốt nhất cho xã hội.

(v) Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 chưa có quy định cụ thể về điều kiện để được tham gia đấu giá, thi tuyển quyền sử dụng tần số vô tuyến điện trong khi băng tần dành cho thông tin di động mặt đất công cộng rất hữu hạn và là nguồn lực thiết yếu để doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông.

Vì vậy, khoản 5 và khoản 8 Điều 1 của Luật đã bổ sung quy định về điều kiện được tham gia đấu giá, thi tuyển quyền sử dụng tần số vô tuyến điện như yêu cầu tổ chức phải có đủ điều kiện được cấp giấy phép thiết lập mạng viễn thông, phải có cam kết triển khai mạng viễn thông, hoàn thành các nghĩa vụ tài chính về viễn thông và tần số vô tuyến điện. Quy định về điều kiện tham gia đấu giá, thi tuyển đảm bảo lựa chọn được các doanh nghiệp tốt nhất để trao quyền sử dụng sử dụng tần số.

(vi) Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 quy định việc quản lý, cấp giấy phép sử dụng tần số vô tuyến điện phải phù hợp với các quy hoạch tần số vô tuyến điện. Tuy nhiên, một số trường hợp đặc biệt, cần thiết phải sử dụng tần số và thiết bị vô tuyến điện ngoài quy hoạch tần số vô tuyến điện của Việt Nam nhưng cần được xem xét cấp phép để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của Việt Nam, doanh nghiệp nước ngoài trong hoạt động nghiên cứu, sản xuất để xuất khẩu hoặc bảo đảm hoạt động của các sự kiện đặc biệt tại Việt Nam.

Trên cơ sở đó, khoản 3 Điều 1 của Luật đã bổ sung một điều mới (Điều 11a) cho phép Bộ TTTT xem xét cấp sử dụng tần số ngoài quy hoạch trong một số các trường hợp đặc biệt như: sử dụng cho mục đích triển lãm, đo kiểm, nghiên cứu, thử nghiệm công nghệ mới hoặc sử dụng trong các sự kiện, hội nghị quốc tế. Quy định này góp phần thúc đẩy việc nghiên cứu, sản xuất thiết bị vô tuyến điện của Việt Nam, đồng thời vẫn bảo đảm được ngăn ngừa khả năng can nhiễu với các hệ thống thông tin vô tuyến điện khác.

b) Các khoản thu từ việc sử dụng tần số vô tuyến điện

Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 quy định phí sử dụng tần số vô tuyến điện được quy định trên cơ sở giá trị kinh tế của phổ tần số vô tuyến điện sử dụng, điều này chưa thực sự phù hợp với quy định của Luật Phí, lệ phí.

Ngoài ra, Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 chỉ quy định việc cấp phép thông qua đấu giá quyền sử dụng tần số vô tuyến điện là có thu khoản tiền ngoài phí, lệ phí; chưa quy định thu khoản tiền cấp quyền sử dụng tần số vô tuyến điện với trường hợp thi tuyển các băng tần có giá trị thương mại cao khi nhu cầu sử dụng vượt quá khả năng phân bổ hoặc khi cấp trực tiếp các băng tần này. Quy định này chưa đồng bộ với quy định về khoản thu từ tiền cấp quyền sử dụng tài nguyên theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công.

Trên cơ sở đó, khoản 12 Điều 1 của Luật đã sửa đổi, bổ sung Điều 31 Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 để quy định về các trường hợp phải nộp tiền cấp quyền sử dụng tần số vô tuyến điện; giao Chính phủ quy định cụ thể mức thu, phương thức thu tiền cấp quyền sử dụng tần số vô tuyến điện; sửa đổi quy định về cơ sở xác định mức thu phí sử dụng tần số vô tuyến điện để làm rõ nội hàm của phí không căn cứ vào giá trị kinh tế của phổ tần; bổ sung quy định các doanh nghiệp quốc phòng, an ninh khi sử dụng tần số phân bổ cho quốc phòng, an ninh kết hợp với phát triển kinh tế thì cũng phải nộp các khoản thu nói trên cho ngân sách để đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động viễn thông và sự bình đẳng về nghĩa vụ giữa các doanh nghiệp trong việc thực hiện các khoản phí, lệ phí và tiền cấp quyền sử dụng tần số vô tuyến điện cho ngân sách nhà nước.

c) Về đào tạo và cấp chứng chỉ vô tuyến điện viên

Theo quy định của Liên minh Viễn thông quốc tế – ITU (Việt Nam là thành viên), người trực tiếp khai thác đài vô tuyến điện hàng hải, hàng không, vô tuyến điện nghiệp dư phải có chứng chỉ vô tuyến điện viên do Bộ quản lý chuyên ngành về viễn thông cấp hoặc công nhận. Luật Tần số vô tuyến điện  năm 2009 giao Bộ TTTT trực tiếp thực hiện việc đào tạo và cấp chứng chỉ vô tuyến điện viên là chưa thực sự phù hợp với chủ trương xã hội hóa trong giáo dục, đào tạo, cấp chứng chỉ của Đảng và Nhà nước.

Đối với các lĩnh vực đặc thù như hàng không, hiện nay việc đào tạo một số chức danh nhân viên hàng không (như nhân viên thông tin, giám sát, dẫn đường hàng không) đã gồm cả đào tạo về vô tuyến điện. Vì vậy không cần phải cấp riêng chứng chỉ vô tuyến điện viên cho các cá nhân làm việc trong các lĩnh vực đặc thù, chuyên ngành.

Ngoài ra, việc giao thẩm quyền cho Chính phủ quy định chi tiết điều kiện, thủ tục công nhận tổ chức đủ điều kiện đào tạo, tổ chức thi, chấm thi, cấp chứng chỉ vô tuyến điện viên là phù hợp với quy định của Luật Đầu tư về điều kiện đầu tư, kinh doanh.

Trên cơ sở đó, điểm b khoản 1 và khoản 32 Điều 1 của Luật đã sửa đổi quy định về đào tạo, cấp chứng chỉ vô tuyến điện viên để giao các cơ sở đào tạo đáp ứng các điều kiện đào tạo theo quy định của Chính phủ thực hiện, Bộ TTTT đóng vai trò quản lý, giám sát nhằm đẩy mạnh việc cải cách hành chính và xã hội hóa công tác đào tạo cấp chứng chỉ. Đối với các trường hợp đã có chứng chỉ tương đương theo quy định của pháp luật hoặc Điều ước quốc tế thì không bắt buộc phải có chứng chỉ vô tuyến điện viên. Khoản 5 Điều 4 của Luật cho phép việc đào tạo, cấp chứng chỉ vô tuyến điện viên tiếp tục được thực hiện theo quy định của Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 đến hết ngày 30 tháng 6 năm 2024 để tạo điều kiện cho cơ sở đào tạo có thời gian chuẩn bị các thủ tục, hồ sơ để được tiếp tục đào tạo vô tuyến điện theo quy định mới. Quy định này góp phần đẩy mạnh việc cải cách hành chính nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu quản lý của Nhà nước trong công tác đào tạo và cấp chứng chỉ vô tuyến điện viên.

d) Nhóm quy định về xử lý nhiễu có hại, đăng ký, phối hợp quốc tế về tần số, quỹ đạo vệ tinh

(i) Đối với vấn đề khai thác sử dụng để đảm bảo an toàn, không can nhiễu, Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 chỉ quy định các tổ chức, cá nhân sử dụng tần số vô tuyến điện và thiết bị vô tuyến điện trong khu vực nhiễu có hại có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý chuyên ngành và tạo điều kiện để phát hiện, xử lý nhiễu. Tuy nhiên, trong quá trình xử lý nhiễu có hại những năm qua cho thấy nhiều vụ nhiễu có nguyên nhân từ các thiết bị không phải thiết bị vô tuyến điện mà từ các thiết bị điện, điện tử như nhiễu từ đèn huỳnh quang, máy ép công nghiệp…, trong khi đó Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 chưa có quy định cho phép cơ quan quản lý tiếp cận nguồn nhiễu này để tìm nguyên nhân và xử lý nhiễu, gây ảnh hưởng tới hoạt động, lợi ích của người sử dụng khác.

Vì vậy, điểm e khoản 17 Điều 1 của Luật đã bổ sung quy định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sử dụng thiết bị điện, điện tử, thiết bị ứng dụng sóng vô tuyến điện trong khu vực nhiễu có hại trong việc phối hợp với cơ quan quản lý chuyên ngành tần số vô tuyến điện. Quy định này góp phần nâng cao trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sử dụng thiết bị điện, điện tử, thiết bị ứng dụng sóng vô tuyến điện, đảm bảo đảm bảo hệ thống thông tin vô tuyến được vận hành thông suốt, hiệu quả.

(ii) Để được Liên minh Viễn thông quốc tế – ITU công nhận chủ quyền sử dụng tần số và quỹ đạo vệ tinh (ví dụ tần số vô tuyến điện và quỹ đạo cho vệ tinh Vinasat 1 và 2) phải tiến hành đàm phán khó khăn giữa các nước có liên quan để hoàn thành việc phối hợp tần số vô tuyến điện, quỹ đạo vệ tinh với các nước bị ảnh hưởng. Sau khi tần số vô tuyến điện, quỹ đạo vệ tinh được ITU công nhận, khi vệ tinh của Việt Nam hoạt động trên quỹ đạo vẫn cần được tiếp tục bảo vệ để không bị ảnh hưởng bởi các tần số vô tuyến điện, vệ tinh của nước ngoài được đăng ký sau này. Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 đã có quy định đầy đủ ở khâu đăng ký, phối hợp tần số vô tuyến điện và quỹ đạo vệ tinh bao gồm quy định trách nhiệm của cơ quan quản lý và tổ chức, doanh nghiệp trực tiếp thực hiện phối hợp với tổ chức nước ngoài nhưng chưa có quy định bảo vệ tần số vô tuyến điện và quỹ đạo vệ tinh sau khi được ITU công nhận. Trên thực tế, việc thực hiện kiểm tra các đăng ký tần số vô tuyến điện và quỹ đạo vệ tinh của nước ngoài chỉ có Bộ TTTT thực hiện mà chưa có sự tham gia của các doanh nghiệp được cấp phép sử dụng tần số và quỹ đạo vệ tinh đó. Nhiều nước trên thế giới giao cho doanh nghiệp trực tiếp quản lý hệ thống vệ tinh thực hiện việc này, Bộ là đầu mối thông báo với ITU các đăng ký tần số và quỹ đạo vệ tinh có thể gây nhiễu có hại cho vệ tinh của nước đó để huy động nguồn lực của doanh nghiệp, giúp bảo vệ tốt hơn chủ quyền sử dụng tần số và quỹ đạo vệ tinh.

Vì vậy, khoản 14 và điểm đ khoản 17 Điều 1 của Luật đã bổ sung quy định trách nhiệm của Bộ TTTT và của tổ chức được cấp giấy phép sử dụng tần số và quỹ đạo vệ tinh trong việc kiểm tra các đăng ký tần số vô tuyến điện và quỹ đạo vệ tinh của nước ngoài có khả năng ảnh hưởng đến hệ thống vệ tinh của Việt Nam nhằm huy động tối đa các nguồn lực để bảo vệ tốt hơn chủ quyền của Việt Nam. Quy định này góp phần nâng cao trách nhiệm của Bộ TTTT và của tổ chức sử dụng tần số vô tuyến điện và quỹ đạo vệ tinh, đảm bảo hệ thống thông tin vệ tinh của Việt Nam được vận hành thông suốt, hiệu quả.

đ) Các nội dung của Luật liên quan đến thẩm quyền quy định văn bản để phù hợp, thống nhất với các Luật có liên quan

(i) Sửa đổi thẩm quyền quy định thủ tục cấp phép, cho thuê, cho mượn, thu hồi giấy phép, đấu giá, chuyển nhượng, thi tuyển quyền sử dụng tần số, quy định về hành lang an toàn kỹ thuật của đài vô tuyến điện là của Chính phủ; cơ chế phối hợp quản lý, sử dụng tần số giữa Bộ TTTT, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an là của Thủ tướng Chính phủ để phù hợp với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (khoản 4, khoản 7, điểm b khoản 10, các điểm c, g và i khoản 16 Điều 1 của Luật).

(ii) Bỏ quy định thẩm quyền của Bộ Ngoại giao, Bộ TTTT trong việc hướng dẫn trình tự, thủ tục ký kết các thỏa thuận quốc tế về tần số để thực hiện theo quy định tại Luật Thỏa thuận quốc tế 2020 (khoản 17 Điều 1 của Luật).

(i) Khoản 1 Điều 2 của Luật bổ sung mục 228 vào sau mục 227 của Phụ lục IV Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện của Luật Đầu tư (đưa việc “Đào tạo, tổ chức thi, cấp chứng chỉ vô tuyến điện viên” thuộc ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện) để đồng bộ với quy định tại khoản 13 Điều 1 của Luật.

(ii) Do tần số vô tuyến điện truyền lan tự do trong không gian, không bị giới hạn bởi địa giới hành chính và chỉ có thể phát hiện vi phạm thông qua các phương tiện kỹ thuật, nghiệp vụ; Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 chưa có quy định về quản lý và sử dụng hệ thống thiết bị, phương tiện để phát hiện vi phạm hành chính, do vậy, khoản 2 Điều 2 Luật đã bổ sung cụm từ “tần số vô tuyến điện” vào sau cụm từ “phòng, chống tác hại của rượu, bia” tại khoản 1 Điều 64 của Luật Xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 54/2014/QH13, Luật số 18/2017/QH14 và Luật số 67/2020/QH14 để quy định việc phát hiện vi phạm trong lĩnh vực tần số vô tuyến điện được phép sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ chuyên dụng.

  1. g) Điều khoản chuyển tiếp

(i) Khoản 1 Điều 4 của Luật cho phép giấy phép sử dụng tần số vô tuyến điện đã cấp trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì được tiếp tục sử dụng cho đến hết thời hạn được ghi trong giấy phép. Chứng chỉ vô tuyến điện viên đã cấp trước ngày 01/7/2024 thì được tiếp tục sử dụng cho đến hết thời hạn được ghi trong chứng chỉ để đảm bảo tính liên tục, không ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đã được cấp giấy phép, chứng chỉ theo quy định của Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009.

(ii) Khoản 2 Điều 4 của Luật cho phép đối với các tổ chức đã được cấp giấy phép sử dụng băng tần để thiết lập mạng viễn thông công cộng di động mặt đất với thời hạn sử dụng trước ngày 06/9/2023 thì sẽ được xem xét gia hạn sử dụng tiếp đến đến hết ngày 15/9/2024 theo quy định của Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 mà không phải nộp tiền cấp quyền sử dụng tần số cho thời gian được gia hạn.

(iii) Khoản 3 Điều 4 của Luật cho phép tổ chức đã được cấp giấy phép sử dụng băng tần để thiết lập mạng viễn thông công cộng di động mặt đất mà hết hạn sử dụng trước ngày 16/9/2024 thì không phải nộp tiền cấp quyền sử dụng tần số vô tuyến điện cho đến hết thời hạn được ghi trong giấy phép và không được gia hạn (trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4).

(iv) Bộ TTTT thông báo quy hoạch băng tần đối với các băng tần đã cấp cho tổ chức quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 4 của Luật trước ngày 01/8/2023. Đối với khối băng tần được xem xét cấp lại mà sử dụng chung tần số vô tuyến điện theo giấy phép sử dụng băng tần đã cấp trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì được xem xét cấp lại theo hiện trạng sử dụng.

Rubi

Giới thiệu Đề cương Tuyên truyền

Đề cương tuyên truyền pháp luật (trang web thành viên của https://trangtinphapluat.com): Nơi cung cấp các đề cương tuyên truyền, nghiệp vụ tuyên truyền pháp luật Liên hệ: kesitinh355@gmail.com. Điện thoại, Zalo: 0935634572

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *