Đề cương tuyên truyền Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức Chính quyền địa phương

Để kịp thời tuyên truyền Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương sửa đổi năm 2019, decuongtuyentruyen.com biên soạn và giới thiệu tới bạn đọc đề cương tuyên truyền  gồm 02 phân: Phần 01 – Sự cần thiết ban hành Luật Tổ chức chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương sửa đổi 2019. Phần 02  Những nội dung cơ bản của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Tổ chức chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương.

I. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG

1. Những vấn đề đặt ra trong quá trình triển khai Luật Tổ chức Chính phủ và Luật tổ chức chính quyền địa phương năm2015

Căn cứ Hiến pháp năm 2013, ngày 19/6/2015 Quốc hội đã ban hành Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Hai Luật này đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp và các chủ trương, định hướng của Đảng về Chính phủ và chính quyền địa phương, tạo hành lang pháp lý quan trọng cho tổ chức, hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp. Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa Chính phủ với chính quyền địa phương đã được đẩy mạnh, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, bảo đảm sự chỉ đạo, điều hành thống nhất của Chính phủ và phát huy sự chủ động, sáng tạo, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong phạm vi thẩm quyền của chính quyền địa phương các cấp, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt của hệ thống hành chính từ Trung ương đến cơ sở.

Đề cương tuyên truyền Luật Tổ chức chính phủ
Đề cương tuyên truyền Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức Chính quyền địa phương

Qua gần 3 năm triển khai thực hiện, bên cạnh các kết quả đã đạt được, một số quy định hiện hành của 2 Luật cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng và đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra, cụ thể như sau:

a) Đối với Luật Tổ chức Chính phủ:

– Việc giao Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyệnlàm giảm tính chủ độngcủa địa phương trong việc tổ chức vàthành lập các cơ quan chuyên môn phù hợp với điều kiện, đặc điểm đặc thù ở mỗi địa phương.

– Việc giao Chính phủ có thẩm quyền quyết định biên chế công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước hạn chế tính chủ động và chưa đề cao được trách nhiệm của người đứng đầu Chính phủ (thực tế hiện nay Thủ tướng Chính phủ đang quyết định giao và điều chỉnh biên chế công chức).

– Nội dung quy định thẩm quyền của Bộ trưởng, Thủ tưởng cơ quan ngang Bộ trong việc bổ nhiệm, biệt phái, điều động, luân chuyển, kỷ luật, cho từ chức, miễn nhiệm đối với cán bộ, công chức tại Luật tổ chức Chính phủ chưa phù hợp với một số các quy định của Đảng và của pháp luật về cán bộ, công chức hiện nay.

– Thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ theo quy định hiện hành vẫn còn bị hạn chế trong việc quyết định thí điểm thành lập các tổ chức thuộc cơ cấu bên trong của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ cấu bên trong của UBND, cơ quan chuyên môn thuộc UBND, đơn vị sự nghiệp công lập, làm cơ sở để thử nghiệm các mô hình quản lý mới,đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, cải cách công vụ, công chức, nhằm phục vụ Nhân dân ngày một tốt hơn.

b) Đối với Luật tổ chức chính quyền địa phương:

– Một số quy định của Luật về phân định thẩm quyền, phân quyền, phân cấp, ủy quyền chưa được quy định rõ, nhất là chủ thể thực hiện ủy quyền gâykhó khăn trong việc áp dụng và hạn chế hoạt động của chính quyền địa phương các cấp. Luật chưa có quy định để tạo cơ sở cho các luật chuyên ngành quy định cụ thể các nhiệm vụ, quyền hạn không được phân cấp, ủy quyền nhằm tránh việc phân cấp, ủy quyền tràn lan, làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước ở địa phương.

(Quy định phân cấp, phân quyền, ủy quyền trong quản lý hành chính)

– Việc tăng số lượng Phó Chủ tịch HĐND cấp tỉnh, cấp huyện chưa phù hợp với tình hình tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương; việc quy định số lượngPhó Trưởng ban của HĐND cấp tỉnh, cấp huyện hoạt động chuyên trách đã làm tăng biên chế của chính quyền địa phương trong bối cảnh cả nước thực hiện Nghị quyết của Trung ương về tinh giản biên chế.

– Ở cấp xã, việc thực hiện quy định của Luật về số lượng Phó Chủ tịch UBNDtheo phân loại hành chính cơ bản phù hợp với cấp tỉnh, cấp huyện, song đã làm giảm số lượng Phó Chủ tịch UBND cấp xã loại 2, loại 3 chỉ còn 01 Phó Chủ tịch, gây khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã.

– Việc không thành lập Tổ đại biểu HĐND cấp xã là chưa phù hợp với thực tế hoạt động của HĐND cấp xã, nhất là trong triển khai thực hiện nhiệm vụ giám sát và hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND cấp xã tại các thôn, tổ dân phố theo từng đơn vị bầu cử đại biểu HĐND trên địa bàn cấp xã.

– Luật không quy định thẩm quyền phê duyệt kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của cấp xãlà chưa phù hợp.Thực tế cho thấy, UBND cấp xã vẫn phải đề ra kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hàng năm trên địa bàn trên cơ sở chỉ tiêu kế hoạch của cấp trên và nghị quyết của cấp ủy đảng cùng cấp. Vì vậy,nhiều địa phương vẫn đề nghịbổ sung quy định thẩm quyền của UBND cấp xã xây dựng trình HĐND cấp xã thông qua để trình UBND cấp huyệnphê duyệt kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của cấp xã trước khi triển khai thực hiện.

– Quy định của Luật về cơ cấu tổ chức của chính quyền địa phương cấp huyện, cấp xã ở hải đảo như các đơn vị hành chính trong đất liền là chưa phù hợp với các đặc thù, đặc điểm khác biệt của các đơn vị hành chính ở hải đảo.

2. Chủ trương và các định hướng lớn của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả

Văn kiện Đại hội đảng toàn quốc lần thứ XII và Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 18-NQ/TW) đã định hướng các nhiệm vụ, giải pháp để sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Chính phủ và Luật tổ chức chính quyền địa phương. Cụ thể:

Một là, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác giữa các bộ, ngành, các tổ chức trực thuộc các bộ, ngành, địa phương và cơ cấu tổ chức của các cấp chính quyền địa phương; khắc phục triệt để sự trùng lắp, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ theo hướng một tổ chức có thể đảm nhiệm nhiều việc, nhưng một việc chỉ do một tổ chức chủ trì và chịu trách nhiệm chính.

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp mạnh mẽ, hợp lý giữa Chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương để tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề cao tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực.Quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ giữa Chính phủ với các Bộ, ngành; giữa Chính phủ, các Bộ, ngành với chính quyền địa phương cấp tỉnh và giữa các cấp chính quyền địa phương.

Ba là, cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, kiện toàn một số tổ chức và các đầu mối bên trong của từng tổ chức theo hướng giảm đầu mối, giảm tối đa cấp trung gian, giảm cấp phó. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện một số quy định liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ và chính quyền địa phương để kịp thời khắc phục tình trạng trùng lắp, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực quản lý. Thực hiện thí điểm một số mô hình mới về tổ chức bộ máy và kiêm nhiệm chức danh để tinh gọn đầu mối, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, góp phần làm rõ về lý luận và thực tiễn.

Bốn là, nghiên cứu giảm hợp lý số lượng đại biểu HĐND các cấp và giảm đại biểu HĐND công tác ở các cơ quan quản lý nhà nước; giảm số lượng Phó chủ tịch HĐND cấp tỉnh, cấp huyện và quy định số lượng Phó Chủ tịch UBND cấp xã loại II phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, gắn với nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động để thực hiện từ nhiệm kỳ 2021 – 2026.

Năm là, quy định khung số lượng các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện và khung số lượng cấp phó của các cơ quan này.

II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT SỬA ĐỔI BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT TỔ CHỨC CHÍNH PHỦ VÀ LUẬT TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG 2019

1. Phạm vi điều chỉnh và bố cục của Luật

– Phạm vi điều chỉnh: Luật sửa đổi, bổ sung 5/50 điều của Luật Tổ chức chính phủ và 38/143 điều của Luật Tổ chức chính quyền địa phương.

Bố cục gồm 4 điều: Điều 1 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức chính phủ. Điều 2 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chưc chính quyền địa phương; Điều 3 về điều khoản thi hành và Điều 4 điều khoản chuyển tiếp.

2. Về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức chính phủ (Điều 1) với 3 nội dung như sau:

2.1. Về thẩm quyền của Chính phủ trong quản lý và tổ chức bộ máy nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, viên chức (Điều 23)

– Bổ sung thẩm quyền của Chính phủ về tiêu chí thành lập và số lượng biên chế tối thiểu để tổ chức đơn vị trực thuộc Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ; quy định về tổ chức, khung số lượng, tiêu chí thành lập và số lượng biên chế tối thiểu để tổ chức cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, huyện; các đơn vị trực thuộc cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh (khoản 3); quy định về số lượng cấp phó tối đa của đơn vị trực thuộc cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, huyện (khoản 4); quyết định về phân cấp quản lý CBCCVC trong cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập (khoản 9).

2.2. Về thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ (Điều 28)

– Bổ sung thẩm quyền ‘ủy quyền thực hiện những nội dung thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ về quản lý công chức, viên chức trong các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập (điểm đ khoản 2).

– Bỏ thẩm quyền quyết định các tiêu chí, điều kiện thành lập hoặc giải thể các cơ quan chuyên môn đặc thù thuộc UBND cấp tỉnh, huyện (khoản 10) do chuyển nhiệm vụ thuộc thẩm quyền của Chính phủ (khoản 3 Điều 23).

2.3. Về thẩm quyền của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với tư cách là người đứng đầu bộ và cơ quan ngang bộ (Điều 34 và Điều 40)

– Bổ sung thẩm quyền “cho từ chức” và “biệt phái” (khoản 5 Điều 34)  và điều động, luân chuyển, biệt phái (khoản 9 Điều 34) đối với công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý để thống nhất với Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức.

– Bỏ thẩm quyền quyết định thành lập các tổ chức phối hợp liên ngành (khoản 8) để thực hiện thống nhất vấn đề này thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ (khoản 10 Điều 28).

– Bổ sung thẩm quyền quyết định cụ thể số lượng cấp phó của vụ, văn phòng, thanh tra, cục, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ bảo đảm bình quân không quá 03 người trên một đơn vị (khoản 2 Điều 40).

(Tải Bộ câu hỏi trắc nghiệm tìm hiểu Luật Tổ chức Chính phủ năm 2019)

Ngoài các nội dung nêu trên còn sửa đổi, bổ sung một số cụm từ cho phù hợp với thực tiễn (thay cụm từ “bất thường” tại khoản 1 Điều 44  bằng “họp chuyên đề hoặc họp để giải quyết công việc đột xuất phát sinh” đối với phiên họp Chính phủ).

3. Về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức chính quyền địa phương (Điều 2) gồm 7 nội dung

3.1. Về phân cấp, phân quyền, ủy quyền (các Điều 11, 12, 13, 14): Quy định rõ khi thực hiện phân cấp, phân quyền phải gắn với hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân; bảo đảm các điều kiện về ngân sách, nguồn nhân lực và các điều kiện cần thiết khác cho việc thực hiện; quy định cụ thể các trường hợp được phân cấp, ủy quyền để tránh việc phân cấp, ủy quyền tràn lan.

Nguyên tắc phân cấp quản lý nhà nước
Các lĩnh vực được phân cấp quản lý nhà nước

3.2. Về mô hình tổ chức chính quyền địa phương, quy định theo hướng linh hoạt, cụ thể như sau:

– Về tổ chức chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính: Sửa đổi ,bổ sung khoản 1 Điều 4 để khẳng định nguyên tắc Hiến định: Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt.

– Về tổ chức chính quyền địa phương ở quận và phường: Sửa đổi bổ sung Điều 44 và Điều 58 theo hướng chính quyền địa phương ở quận, phường là cấp chính quyền địa phương (có HĐND và UBND), trừ trường hợp Quốc hội quy định cụ thể không phải là cấp chính quyền địa phương để phù hợp với đặc điểm và yêu cầu quản lý của từng đô thị.

– Về trường hợp đơn vị hành chính cấp huyện ở hải đảo chia thành các đơn vị hành chính cấp xã thì tại đơn vị hành chính cấp xã tổ chức thành chính quyền địa phương, trừ trường hợp cụ thể Quốc hội quy định không phải là cấp chính quyền địa phương  (khoản 2 Điều 27); giao Chính phủ quy định việc tổ chức các cơ quan thuộc chính quyền địa phương ở địa bàn hải đảo (khoản 3 Điều 72).

– Về tổ chức chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt do Quốc hội quy định khi thành lập đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt  đó (Điều 75).

3.3. Về tổ chức Hội đồng nhân dân (các Điều 6,7,18,25,32,39,46,5360,67,83)

– Về tiêu chuẩn của đại biểu HĐND, bổ sung quy định có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam (khoản 1a Điều 7)

– Về số lượng đại biểu HĐND: Quy định khung số lượng theo hướng giảm từ 10 đến 15% số lượng đại biểu HĐND ở từng loại hình đơn vị hành chính.

– Về thường trực HĐND và số lượng phó chủ tịch HĐND:

+ Bỏ quy định Chánh Văn phòng trong Thường trực HĐND cấp tỉnh và quy định rõ số lượng phó chủ tịch HĐND cấp tỉnh (Nếu chủ tịch hoạt động chuyên trách thì có 01 phó chủ tịch, nếu chủ tịch hoạt động không chuyên trách thì có 02 phó chủ tịch).

+ Giảm 01 phó chủ tịch HĐND cấp huyện (từ 02 người xuống còn 01 người).

+ Bổ sung Trưởng ban của HĐND cấp xã là Ủy viên Thường trực của HĐND cấp xã

– Về số lượng phó trưởng ban HĐND cấp tỉnh quy định rõ: Nếu Trưởng ban hoạt động chuyên trách thì có 01 phó Trưởng ban, nếu Trưởng ban hoạt động không chuyên trách thì có 02 phó Trưởng ban.

3.4. Về bổ sung thẩm quyền của HĐND cấp xã thông qua kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hằng năm của cấp xã (do UBND cấp xã xây dựng) trước khi trình UBND cấp huyện phê duyệt (các Điều 33, 61, 68).

3.5. Bổ sung quy định UBND cấp xã loại 02 có không quá 02 phó Chủ tịch (sửa từ 01 thành không quá 02 tại các Điều 34, 62, 69).

3.6. Về bộ máy giúp việc của chính quyền địa phương (Điều 127) được quy định khái quát: HĐND, UBND cấp tỉnh, huyện có cơ quan tham mưu, giúp việc, phục vụ hoạt động theo quy định của pháp luật (không quy định cụ thể tên các Văn phòng như trước); giao Chính phủ quy định cụ thể.

3.7. Quy định cụ thể trách nhiệm của đại biểu HĐND với cử tri, về tiếp xúc cử tri và thôi làm nhiệm vụ đại biểu HĐND (khoản 1 Điều 94 và khoản 1 Điều 101); về tổ chức lại các đơn vị hành chính không đạt chuẩn theo quy định (khoản 1 Điều 128).

(Tải bộ câu hỏi trắc nghiệm tìm hiểu Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2019)

Ngoài các nội dung nêu trên còn sửa đổi một số cụm từ cho phù hợp với thực tiễn (thay cụm từ “bất thường” tại khoản 1 Điều 44  bằng “họp chuyên đề hoặc họp để giải quyết công việc đột xuất phát sinh” đối với kỳ họp HĐND và phiên họp UBND).

4. Điều khoản chuyển tiếp (Điều 4) quy định rõ: Từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến khi bầu ra HĐND nhiệm kỳ 2021-2026, số lượng đại biểu HĐND tại các đơn vị hành chính, cơ cấu Thường trực HĐND cấp tỉnh, cấp xã; số lượng Phó Chủ tịch HĐND và Phó Trưởng ban HĐND cấp tỉnh, Phó Chủ tịch HDND cấp huyện, Phó chủ tịch UBND xã, phường thị trấn loại 2  tiếp tục thực hiện theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015.

Rubi

Giới thiệu Đề cương Tuyên truyền

Đề cương tuyên truyền pháp luật (trang web thành viên của https://trangtinphapluat.com): Nơi cung cấp các đề cương tuyên truyền, nghiệp vụ tuyên truyền pháp luật Liên hệ: kesitinh355@gmail.com. Điện thoại, Zalo: 0935634572

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *