Tình hình sức khỏe của người dân Việt Nam hiện nay

Decuongtuyentruyen.com tổng hợp, giới thiệu tới bạn đọc tình hình sức khỏe của người dân Việt Nam từ giai đoạn 2007 đến năm 2023 theo dự thảo Tờ trình xây dựng Luật Phòng bệnh của Bộ y tế.

Trong 15 năm qua, Việt Nam đã đạt được thành tựu quan trọng về chăm sóc sức khỏe.

Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đã tăng từ 73,3 tuổi lên 73,7 tuổi; tuy nhiên, sang đến năm 2021, tuổi thọ trung bình đã giảm nhẹ xuống còn 73,6 tuổi do ảnh hưởng của dịch COVID-19.

Các chỉ số về chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em ngày càng được cải thiện; tỷ suất tử vong trẻ dưới 1 tuổi cũng như tỷ suất tử vong trẻ dưới 5 tuổi  đã giảm và đã đạt được mục tiêu Phát triển Thiên niên Kỷ và đúng tiến độ trong thực hiện các mục tiêu đặt ra trong Mục tiêu Phát triển Bền vững.

Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi thể thấp còi cũng giảm tương ứng từ 33,9% năm 2007 xuống còn 18,9% năm 2022.

Thực trạng sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục của thanh niên Việt Nam
tình hình sức khỏe của người dân Việt Nam

Chương trình tiêm chủng mở rộng là một thành công của mạng lưới y tế cơ sở. Triển khai ở trạm y tế xã từ 1985, đến năm 1995 cả nước không còn xã trắng về tiêm chủng. Việt Nam đã thanh toán hoàn toàn bệnh Bại liệt năm 2000 và loại trừ Uốn ván sơ sinh năm 2005. Kết quả thành công đạt được về các chỉ tiêu sức khoẻ có sự đóng góp quan trọng của mạng lưới y tế cơ sở. Việt Nam được quốc tế đánh giá là một trong số ít quốc gia có mạng lưới y tế hoàn chỉnh, tổ chức rộng khắp tới tận thôn, bản và đang là mô hình mà nhiều nước trên thế giới quan tâm, học hỏi, làm theo.

Mạng lưới cơ sở là nhân tố then chốt đưa Việt Nam trở thành điểm sáng về y tế công cộng và để người dân Việt Nam được hưởng cuộc sống khỏe mạnh và lâu dài hơn so với các quốc gia khác có trình độ phát triển tương tự.

Bên cạnh các thành công đã đạt được, công tác chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân cũng còn nhiều tồn tại, bất cập đó là chất lượng sống của người dân còn hạn chế do bệnh tật. Người dân Việt Nam có tuổi thọ tương đối cao nếu so với các quốc gia có cùng mức sống, nhưng lại có số năm sống với bệnh tật nhiều. Theo số liệu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), trong 11 quốc gia Đông Nam Á, tuổi thọ nam giới Việt Nam đứng thứ 5 và tuổi thọ phụ nữ Việt Nam đứng thứ hai, tuy nhiên số năm sống có bệnh tật lại cao so với các nước. Mỗi người Việt Nam trung bình có tới 10 năm phải sống với bệnh tật vì vậy ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng sống và làm giảm số năm sống khỏe mạnh. Một số yếu tố quan trọng dẫn đến số năm sống với bệnh tật của người dân Việt Nam còn ở mức cao là do:

(1) Chế độ dinh dưỡng chưa hợp lý dẫn đến hạn chế phát triển thể lực, tầm vóc con người Việt cũng như gia tăng bệnh không lây nhiễm liên quan đến dinh dưỡng:

– Tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân (cân nặng theo tuổi) ở trẻ em dưới 5 tuổi tính chung cả nước mỗi năm giảm trung bình gần 0,7%/năm (2010 – 2015) và giảm trung bình 0,5%/năm (2016 – 2020), giảm từ 17,5% năm 2010 xuống 14,1% năm 2015, xuống 11,5% năm 2020, vượt mục tiêu đề ra là 15% vào năm 2015; 12,5% vào năm 2020.

– Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi (chiều cao theo tuổi) ở trẻ em dưới 5 tuổi tính chung cả nước mỗi năm giảm 1,0%, giảm từ 29,3% năm 2010; xuống 24,6% năm 2015; xuống mức thấp 19,6% năm 2020, vượt mục tiêu đề ra là 26% vào năm 2015 và 21,5% vào năm 2020.

– Tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn ở phụ nữ tuổi sinh đẻ giảm từ 19,6% năm 2009 xuống 15,1% năm 2014, xuống 6,1% năm 2020: so với mục tiêu đề ra (<12% năm 2020).

– Tỷ lệ thừa cân, béo phì ở trẻ em dưới 5 tuổi chung toàn quốc năm 2015 là 5,3% và năm 2018 là 7,1%, trong đó thành thị là 8,7% và nông thôn là 4,1%, đạt được mục tiêu đề ra là kiểm soát tỷ lệ này dưới 10% ở thành thị và dưới 5% ở nông thôn.

– Giảm tỷ lệ trẻ có cân nặng sơ sinh thấp (<2500 gram) là 3,73% năm 2015 và 3,90% năm 2019: đạt mục tiêu đề ra (<8% năm 2020).

– Tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng (retinol huyết thanh <0,7 µmol/l) ở trẻ em dưới 5 tuổi là 9,5%, ở trẻ em 5 – 9 tuổi là 4,9%, ở mức không còn có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng. Tuy nhiên, vùng Tây Nguyên (11,0%) và miền núi phía Bắc (13,8 %) tỷ lệ này ở trẻ em dưới 5 tuổi vẫn có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng ở mức vừa.

(2) Sự gia tăng nhanh của gánh nặng bệnh không lây nhiễm: Việt Nam đang phải đối mặt với sự gia tăng ngày càng trầm trọng của các bệnh không lây nhiễm. Gánh nặng của các bệnh không lây nhiễm đang chiếm tới trên 2/3 tổng gánh nặng bệnh tật và tử vong toàn quốc (tính bằng DALYs) và các bệnh này là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong. Kết quả Điều tra quốc gia yếu tố nguy cơ bệnh không lây nhiễm (STEPS) năm 2021 do Bộ Y tế chủ trì thực hiện, cụ thể:

– Có 20,8% dân số Việt Nam từ 15 tuổi trở lên hiện đang hút thuốc, bao gồm 41,1% nam giới và 0,6% nữ giới. Khoảng 1/3 dân số (37,3%) đã từng tiếp xúc với khói thuốc.

– Gần 2/3 nam giới (64,2%), 1/10 nữ giới (9,8%) hiện có uống rượu, bia. Khoảng 14,7% số người uống rượu, bia ở mức nguy hại (trong 30 ngày qua có ít nhất 1 lần uống từ 6 đơn vị cồn trở lên) và tỷ lệ này ở nam giới (28,5%) cao hơn nhiều lần so với nữ giới (1,0%).

– Khoảng 59% dân số ăn thiếu rau và trái cây so với khuyến nghị là mỗi người cần ăn ít nhất 5 suất (tương đương với 400g) mỗi ngày.

– Tỷ lệ dân số luôn luôn hoặc thường xuyên thêm muối, mắm hoặc gia vị mặn vào thức ăn khi nấu ăn hoặc trong khi ăn là 78,2%. Có 8,7% luôn luôn hoặc thường xuyên ăn thức ăn chế biến sẵn có hàm lượng muối cao. Trung bình một người trưởng thành tiêu thụ 8,1g muối trong một ngày.

– Mức độ hoạt động thể lực của người dân còn thấp. Gần 1/4 dân số (22,2%) thiếu hoạt động thể lực (không đạt mức theo khuyến nghị của WHO).

– Gần 1/5 dân số (19,5%) bị thừa cân (BMI ≥25 kg/m2), trong đó có 2,1% béo phì (BMI ≥30 kg/m2).

– Khoảng 44,1% người trưởng thành có mức cholesterol toàn phần trong máu cao ≥5,0mmol/L hoặc hiện đang dùng thuốc điều trị tăng cholesterol.

– Nhìn chung 15,3% dân số từ 40-69 tuổi có nguy cơ cao ≥20% trong vòng 10 năm tới bị các biến cố tim mạch như đột quỵ và nhồi máu cơ tim. Tuy nhiên, chỉ có 40,8% trong số những người có nguy cơ cao này được tư vấn và dùng thuốc để phòng ngừa bệnh.

– Số liệu về mô hình tử vong cũng cho thấy gánh nặng bệnh tật do các bệnh không lây nhiễm chiếm tỷ trọng cao nhất, 73,66% số ca mắc và 78,6% số ca tử vong năm 2020.

(3) Sự gia tăng các yếu tố nguy cơ về môi trường: Môi trường sống ở Việt Nam nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng bởi các chất thải sinh hoạt, sản xuất, bên cạnh đó ở một số vùng khó khăn nhiều hộ gia đình còn chưa tiếp cận được với các điều kiện vệ sinh cơ bản như nước sạch, nhà tiêu hợp vệ sinh… Các vấn đề này đã tác động trực tiếp đến sức khoẻ của mỗi người dân và cộng đồng. Ngoài những nguyên nhân khách quan thì còn có yếu tố chủ quan là ý thức giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường của người dân còn hạn chế. Nhiều hành vi có lợi cho sức khỏe chưa được người dân quan tâm và thực hiện thường xuyên dẫn đến nguy cơ bùng phát các dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm và gia tăng các bệnh tật. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan như nắng nóng, hạn hán, bão lụt… ảnh hưởng đến sức khỏe của nhiều cộng đồng dân cư, góp phần làm gia tăng các trường hợp nhập viện.

Rubi

Giới thiệu Đề cương Tuyên truyền

Đề cương tuyên truyền pháp luật (trang web thành viên của https://trangtinphapluat.com): Nơi cung cấp các đề cương tuyên truyền, nghiệp vụ tuyên truyền pháp luật Liên hệ: kesitinh355@gmail.com. Điện thoại, Zalo: 0935634572

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *