Ngày 24/6/2025, Quốc hội thông qua Luật Quốc tịch Việt Nam sửa đổi 2025 có hiệu lực từ ngày 1/7/2025. Decuongtuyentruyen.com biên soạn, giới thiệu tới bạn đọc đề cương tuyên truyền Luật Quốc tịch Việt Nam sửa đổi 2025.
Phần 1. Sự cần thiết sửa đổi Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008
Sau 17 năm triển khai thi hành, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 (Luật Quốc tịch Việt Nam) đã thể chế hóa các định hướng, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; cơ bản đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về quốc tịch[1]. Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước chuẩn bị bước vào kỷ nguyên mới, một số quy định hiện hành liên quan đến thủ tục nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam chưa thực sự tạo điều kiện cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài được có quốc tịch Việt Nam mà vẫn giữ quốc tịch nước ngoài, chưa thu hút được nhiều nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước.
Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam, trong đó “nới lỏng” chính sách cho nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam và đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực quốc tịch nhằm tiếp tục thể chế hóa kịp thời, đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác người Việt Nam ở nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người nước ngoài, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài về nước đầu tư, sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số… Qua đó, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết, thúc đẩy chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.

[1] Cụ thể: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2014 đã bãi bỏ quy định mất quốc tịch Việt Nam trong trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài không đăng ký giữ quốc tịch theo quy định tại khoản 2 Điều 13 Luật Quốc tịch; bổ sung quy định người Việt Nam định cư ở nước ngoài chưa mất quốc tịch Việt Nam mà không có giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam thì đăng ký với Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để được xác định có quốc tịch Việt Nam và cấp Hộ chiếu Việt Nam.
Phần 2. Những nội dung mới của Luật Quốc tịch năm 2025
3.1.1. Về nhập quốc tịch Việt Nam
Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam đã được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 79/2025/QH15 quy định về điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam như sau:
– Công dân nước ngoài và người không quốc tịch có đơn xin nhập quốc tịch Việt Nam thì có thể được nhập quốc tịch Việt Nam, nếu có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp là người chưa thành niên xin nhập quốc tịch Việt Nam theo cha hoặc mẹ, người chưa thành niên có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam;
b) Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; tôn trọng văn hóa, truyền thống, phong tục, tập quán của dân tộc Việt Nam;
c) Biết tiếng Việt đủ để hoà nhập vào cộng đồng Việt Nam;
d) Đang thường trú ở Việt Nam;
đ) Thời gian thường trú ở Việt Nam từ 05 năm trở lên tính đến thời điểm xin nhập quốc tịch Việt Nam;
e) Có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam.
– Người xin nhập quốc tịch Việt Nam có vợ hoặc chồng hoặc có con đẻ là công dân Việt Nam thì có thể được nhập quốc tịch Việt Nam mà không phải đáp ứng các điều kiện tại các điểm c, đ và e.
– Người xin nhập quốc tịch Việt Nam thuộc một trong những trường hợp sau đây thì có thể được nhập quốc tịch Việt Nam mà không phải đáp ứng các điều kiện quy định tại các điểm c, d, đ và e:
a) Có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội và bà nội hoặc ông ngoại và bà ngoại là công dân Việt Nam;
b) Có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam;
c) Có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam[1];
d) Người chưa thành niên xin nhập quốc tịch Việt Nam theo cha hoặc mẹ.
– Người xin nhập quốc tịch Việt Nam phải có tên bằng tiếng Việt hoặc bằng tiếng dân tộc khác của Việt Nam. Trường hợp người xin nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài thì có thể lựa chọn tên ghép giữa tên Việt Nam và tên nước ngoài. Tên do người xin nhập quốc tịch Việt Nam lựa chọn và được ghi rõ trong Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam.
– Người xin nhập quốc tịch Việt Nam không được nhập quốc tịch Việt Nam, nếu việc đó làm phương hại đến lợi ích quốc gia của Việt Nam.
– Người xin nhập quốc tịch Việt Nam có vợ hoặc chồng hoặc con đẻ hoặc cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội và bà nội hoặc ông ngoại và bà ngoại là công dân Việt Nam; Có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam; Có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Người chưa thành niên xin nhập quốc tịch Việt Nam theo cha hoặc mẹ được giữ quốc tịch nước ngoài nếu đáp ứng các điều kiện sau đây[2] và được Chủ tịch nước cho phép:

a) Việc giữ quốc tịch nước ngoài phù hợp với pháp luật của nước đó;
b) Không sử dụng quốc tịch nước ngoài để gây phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, xâm hại an ninh, lợi ích quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3.1.2. Về trở lại quốc tịch Việt Nam
Điều 23 Luật Quốc tịch Việt Nam đã được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 79/2025/QH15 quy định về điều kiện được trở lại quốc tịch Việt Nam như sau:
– Bỏ quy định về các trường hợp được trở lại quốc tịch Việt Nam tại khoản 1 Điều 23 Luật Quốc tịch Việt Nam. Theo đó, tất cả các trường hợp đã mất quốc tịch Việt Nam có đơn xin trở lại quốc tịch Việt Nam thì được xem xét giải quyết trở lại quốc tịch Việt Nam.
– Người xin trở lại quốc tịch Việt Nam phải lấy lại tên gọi Việt Nam trước đây. Trường hợp người xin trở lại quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài thì có thể lựa chọn tên ghép giữa tên Việt Nam và tên nước ngoài. Tên gọi này phải được ghi rõ trong Quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam.
– Người xin trở lại quốc tịch Việt Nam được giữ quốc tịch nước ngoài nếu đáp ứng 02 điều kiện tương tự trường hợp xin nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời được giữ quốc tịch nước ngoài và được Chủ tịch nước cho phép.
Theo đó, khoản 3 Điều 17 Nghị định số 191/2025/NĐ-CP ngày 01/7/2025 của Chính phủ quy định “Trường hợp người xin trở lại quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài mà không đáp ứng đầy đủ điều kiện quy định tại khoản 5 Điều 23 Luật Quốc tịch Việt Nam thì phải thôi quốc tịch nước ngoài”.
3.1.3. Về quốc tịch của trẻ em và thay đổi quốc tịch của con chưa thành niên
– Khoản 2 Điều 16 Luật Quốc tịch Việt Nam được sửa đổi, bổ sung nhằm bảo đảm quyền có quốc tịch Việt Nam của trẻ em có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam, cụ thể: “2. Trẻ em sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân nước ngoài thì có quốc tịch Việt Nam, nếu cha mẹ thỏa thuận lựa chọn quốc tịch Việt Nam cho con khi thực hiện thủ tục về khai sinh tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam theo hướng dẫn của Chính phủ. Trường hợp trẻ em được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà cha mẹ không thỏa thuận được việc lựa chọn quốc tịch cho con thì trẻ em đó có quốc tịch Việt Nam.”.
Điều 9 Nghị định số 191/2025/NĐ-CP ngày 01/7/2025 quy định việc xác định quốc tịch Việt Nam của trẻ em có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân nước ngoài như sau:
– Trẻ em có quốc tịch Việt Nam nếu cha mẹ thỏa thuận lựa chọn quốc tịch Việt Nam cho con khi thực hiện đăng ký khai sinh.
– Trường hợp trẻ em được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà cha mẹ không thỏa thuận được việc lựa chọn quốc tịch cho con khi thực hiện đăng ký khai sinh thì trẻ em đó có quốc tịch Việt Nam. Cha hoặc mẹ lập văn bản cam đoan về việc không thỏa thuận được việc lựa chọn quốc tịch cho con và chịu trách nhiệm về việc cam đoan này.
– Trường hợp trẻ em đã được đăng ký khai sinh tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, có quốc tịch nước ngoài thì trẻ em đó có quốc tịch Việt Nam nếu cha mẹ thỏa thuận lựa chọn quốc tịch Việt Nam cho con khi thực hiện ghi vào Sổ hộ tịch việc khai sinh và việc giữ quốc tịch nước ngoài phải phù hợp với pháp luật của nước mà trẻ đang mang quốc tịch. Cha mẹ trẻ phải có bản cam đoan về việc giữ quốc tịch nước ngoài phù hợp với pháp luật của nước mà trẻ đang mang quốc tịch và chịu trách nhiệm về việc cam đoan này.
Khi thực hiện thủ tục về khai sinh tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, trường hợp trẻ em có quốc tịch Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài, thì tên của trẻ có thể lựa chọn tên ghép giữa tên Việt Nam và tên nước ngoài.

– Điều 35 Luật Quốc tịch Việt Nam được sửa đổi, bổ sung nhằm bảo đảm quyền được lựa chọn quốc tịch đối với con chưa thành niên khi cha mẹ thôi quốc tịch Việt Nam, cụ thể: “1a. Khi có sự thay đổi về quốc tịch do thôi quốc tịch Việt Nam của cha mẹ thì quốc tịch của con chưa thành niên sinh sống cùng với cha mẹ cũng được thay đổi theo quốc tịch của họ, nếu cha mẹ không có yêu cầu khác.”.
3.2. Nội dung bổ sung
(1) Bổ sung quy định về mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân trong một số trường hợp tại Điều 5 Luật Quốc tịch Việt Nam:
“5. Người ứng cử, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm, chỉ định giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, địa phương; người làm việc trong tổ chức cơ yếu; người tham gia lực lượng vũ trang của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải là người chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam và phải thường trú tại Việt Nam.
Công chức, viên chức không thuộc quy định tại khoản 5 Điều này phải là người chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không làm phương hại đến lợi ích quốc gia của Việt Nam và phải thường trú tại Việt Nam. Chính phủ quy định chi tiết khoản này.
Trường hợp luật khác ban hành trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành có quy định về quốc tịch khác với quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều này thì áp dụng quy định của Luật này; trường hợp luật khác ban hành sau ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà có quy định về quốc tịch khác với quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều này thì phải xác định cụ thể nội dung thực hiện hoặc không thực hiện quy định này, nội dung thực hiện theo quy định của luật khác đó.”.
Hiện nay, một số văn bản quy phạm pháp luật hiện hành đã có quy định về tiêu chuẩn, điều kiện người được bầu/tuyển dụng/bổ nhiệm vào một số vị trí, chức danh là người chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam[3]. Tuy nhiên, một số Luật khác chỉ quy định tiêu chuẩn, điều kiện là “công dân Việt Nam”. Vì vậy, Luật bổ sung quy định này nhằm bảo đảm vấn đề an ninh, lợi ích quốc gia cũng như tính trung thành, trách nhiệm của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài đối với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi tham gia vào các cơ quan dân cử, các cơ quan của hệ thống chính trị, tham gia lực lượng vũ trang, cơ yếu và chỉ quy định ngoại lệ đối với nhóm công chức, viên chức (trừ công chức, viên chức công tác trong lực lượng vũ trang) nhằm thu hút các trường hợp có tài năng vượt trội, có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
(2) Bổ sung khoản 8 Điều 5 Luật Quốc tịch Việt Nam: “8. Quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền Việt Nam liên quan đến quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật này không bị khiếu nại, khiếu kiện.” nhằm khẳng định quyền chủ quyền quốc gia tuyệt đối đối với vấn đề quốc tịch; khẳng định giá trị pháp lý của các quyết định của cơ quan có thẩm quyền Việt Nam đối với quốc tịch, bảo đảm lợi ích tối đa của quốc gia theo Hiến pháp và pháp luật.
(3) Quy định về trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan có liên quan thực hiện rà soát; sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài (nếu có) trong thời hạn 02 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành nhằm bảo đảm việc “nới lỏng” chính sách cho nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài vừa bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia.
(4) Bổ sung quy định về hủy bỏ Quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam trong trường hợp người xin trở lại quốc tịch Việt Nam có hành vi cam đoan không đúng sự thật; bỏ quy định thời hiệu 05 năm hủy bỏ Quyết định cho nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam tại Điều 33; bổ sung quy định về trách nhiệm của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, Tòa án trong việc lập hồ sơ kiến nghị hủy bỏ Quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam tại Điều 34 (do thủ tục nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam cho phép người yêu cầu cam đoan về một số điều kiện để được giữ quốc tịch nước ngoài). Bổ sung quy định “Bị hủy bỏ Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, Quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam” là một trong những căn cứ mất quốc tịch Việt Nam tại Điều 26.
(5) Bổ sung quy định tại khoản 7 Điều 39 (Trách nhiệm của Chính phủ về quốc tịch) “7. Căn cứ vào điều kiện kinh tế – xã hội, nhu cầu và khả năng thực hiện trong từng thời kỳ, Chính phủ quy định về việc thực hiện giải quyết hồ sơ quốc tịch trên môi trường điện tử.” để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết các thủ tục hành chính, phù hợp xu thế hội nhập và phát triển.
3.4. Nội dung đơn giản hóa thủ tục hành chính
a) Về thành phần hồ sơ
Luật số 79/2025/QH15 bỏ quy định về Phiếu Lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp trong thành phần hồ sơ xin nhập/xin trở lại/xin thôi quốc tịch Việt Nam quy định tại điểm d khoản 1 Điều 20, điểm d khoản 1 Điều 23 và điểm d khoản 1 Điều 28. Theo đó, người yêu cầu không cần nộp Phiếu Lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp trong hồ sơ xin nhập/xin trở lại/xin thôi quốc tịch Việt Nam.
Đối với thời gian cư trú ở nước ngoài, người xin nhập/xin trở lại quốc tịch Việt Nam phải nộp Giấy tờ chứng minh thông tin lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cấp phù hợp với pháp luật của nước đó. Giấy tờ chứng minh thông tin lý lịch tư pháp được cấp không quá 90 ngày tính đến ngày nộp hồ sơ.
b) Về thời hạn
Khoản 2 Điều 21 Luật Quốc tịch Việt Nam được sửa đổi, bổ sung theo hướng giảm thời hạn giải quyết hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam (05 ngày) tại Sở Tư pháp và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cụ thể:
“2. Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Sở Tư pháp gửi văn bản đề nghị cơ quan Công an cấp tỉnh xác minh về nhân thân của người xin nhập quốc tịch Việt Nam.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của Sở Tư pháp, cơ quan Công an cấp tỉnh có trách nhiệm xác minh và gửi kết quả đến Sở Tư pháp. Trong thời gian này, Sở Tư pháp phải tiến hành thẩm tra giấy tờ trong hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam.
Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được kết quả xác minh, Sở Tư pháp có trách nhiệm hoàn tất hồ sơ trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đề nghị của Sở Tư pháp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xem xét, kết luận và đề xuất ý kiến gửi Bộ Tư pháp.”.
c) Về trình tự, thủ tục
– Luật số 79/2025/QH15 đã bổ sung trách nhiệm xác minh của Bộ Công an trong trình tự giải quyết hồ sơ quốc tịch (Điều 21, Điều 25, Điều 29), cụ thể:
+ Khoản 2a Điều 21 quy định: “2a. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm thẩm tra giấy tờ trong hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam và chuyển hồ sơ kèm theo ý kiến đề xuất việc xin nhập quốc tịch Việt Nam về Bộ Tư pháp; đồng thời gửi thông tin về Bộ Ngoại giao để phối hợp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về quốc tịch.
Bộ Công an có trách nhiệm xác minh về nhân thân của người xin nhập quốc tịch Việt Nam theo đề nghị của Bộ Tư pháp.”.
+ Khoản 3 Điều 25 quy định: “3. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm thẩm tra giấy tờ trong hồ sơ xin trở lại quốc tịch Việt Nam và chuyển hồ sơ kèm theo ý kiến đề xuất việc xin trở lại quốc tịch Việt Nam về Bộ Tư pháp; đồng thời gửi thông tin về Bộ Ngoại giao để phối hợp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về quốc tịch.
Bộ Công an có trách nhiệm xác minh về nhân thân của người xin trở lại quốc tịch Việt Nam theo đề nghị của Bộ Tư pháp.”
+ Khoản 4 Điều 29 quy định: “4. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm thẩm tra giấy tờ trong hồ sơ xin thôi quốc tịch Việt Nam và chuyển hồ sơ kèm theo ý kiến đề xuất việc xin thôi quốc tịch Việt Nam về Bộ Tư pháp; đồng thời gửi thông tin về Bộ Ngoại giao để phối hợp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về quốc tịch.
Bộ Công an có trách nhiệm xác minh về nhân thân của người xin thôi quốc tịch Việt Nam theo đề nghị của Bộ Tư pháp. Đối với các trường hợp thuộc diện miễn xác minh theo quy định của Luật này, Bộ Tư pháp đề nghị Bộ Công an xác minh trong trường hợp cần thiết.
– Luật số 79/2025/QH15 không còn quy định về thủ tục đăng ký để được xác định có quốc tịch Việt Nam và cấp Hộ chiếu Việt Nam. Điều 13 Luật Quốc tịch Việt Nam được được sửa đổi, bổ sung như sau: “2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam.
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài chưa mất quốc tịch Việt Nam mà không có giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam theo quy định tại Điều 11 của Luật này thì đề nghị với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để được xác nhận có quốc tịch Việt Nam.”.
Như vậy, kể từ ngày 01/7/2025 cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài chỉ thực hiện thủ tục xác nhận có quốc tịch Việt Nam và cấp Giấy xác nhận có quốc tịch Việt Nam cho người có yêu cầu.

– Để giảm bớt thời gian chuyển hồ sơ giữa các cơ quan nhà nước, Luật 79/2025/QH15 quy định: Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm thẩm tra giấy tờ trong hồ sơ xin nhập/xin trở lại/xin thôi quốc tịch Việt Nam và chuyển hồ sơ kèm theo ý kiến đề xuất về Bộ Tư pháp; đồng thời gửi thông tin về Bộ Ngoại giao để phối hợp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về quốc tịch.
– Bỏ quy định “Văn phòng Chủ tịch nước có trách nhiệm gửi đăng Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyết định cho nhập, cho trở lại, cho thôi, tước quốc tịch Việt Nam, hủy bỏ Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam.” tại Điều 41 Luật Quốc tịch Việt Nam, vì hiện nay các thông tin về kết quả giải quyết về quốc tịch đã được thông báo và cập nhật trên trang thông tin điện tử của Văn phòng Chủ tịch nước, trang thông tin điện tử của Bộ Tư pháp, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và cơ sở dữ liệu quốc tịch, hộ tịch. Bên cạnh đó, các Quyết định này là văn bản hành chính cá biệt, liên quan đến quyền con người, quyền công dân, không phải văn bản quy phạm pháp luật. Hơn nữa, với việc nới lỏng chính sách nhập/trở lại quốc tịch sẽ dẫn đến gia tăng số lượng các trường hợp được nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam trong thời gian tới, việc bỏ quy định này sẽ giúp cắt giảm chi phí tuân thủ.
[1] Khoản 2 Điều 12 Nghị định số 191/2025/NĐ-CP quy định:
“2. Các trường hợp có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm:
- a) Người có tài năng vượt trội trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, kinh tế, pháp luật, văn hóa, xã hội, nghệ thuật, thể thao, y tế, giáo dục hoặc các lĩnh vực khác đã được cơ quan quản lý nhà nước cấp bộ xác nhận về tài năng hoặc được giải thưởng quốc tế, huân chương, huy chương và có cơ sở cho thấy người đó sẽ đóng góp tích cực, lâu dài cho sự phát triển lĩnh vực nói trên của Việt Nam;
- b) Doanh nhân, nhà đầu tư là cá nhân có hoạt động kinh doanh, đầu tư tại Việt Nam đã được cơ quan quản lý nhà nước cấp bộ xác nhận về việc người đó sẽ đóng góp tích cực, lâu dài cho sự phát triển của Việt Nam.”.
[2] Theo đó, Nghị định số 191/2025/NĐ-CP ngày 01/7/2025 của Chính phủ quy định người xin nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài phải có giấy tờ sau:
- a) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp về việc giữ quốc tịch nước ngoài phù hợp với pháp luật của nước đó. Trường hợp pháp luật nước ngoài không quy định việc cấp loại giấy tờ này thì người đó phải có bản cam đoan về việc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài không quy định việc cấp loại giấy tờ này và việc xin giữ quốc tịch nước ngoài khi nhập quốc tịch Việt Nam là phù hợp với pháp luật của nước ngoài đó;
- b) Bản cam kết không sử dụng quốc tịch nước ngoài để gây phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, xâm hại an ninh, lợi ích quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trường hợp người xin nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài mà không đáp ứng đầy đủ điều kiện quy định tại khoản 6 Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam thì phải thôi quốc tịch nước ngoài.
[3] Ví dụ: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2020 (Điều 1), Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 (Điều 5), Luật Cán bộ, công chức (Điều 36), Luật Cơ yếu (Điều 25).
BLog đề cương tuyên truyền pháp luật Đề cương tuyên truyền văn bản luật