Đề cương tuyên truyền Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS)

 Chiều 16/11, Kỳ họp thứ 10 Quốc hội Khóa XIV, Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) với 100% đại biểu tán thành.

Decuongtuyentruyen.com biên soạn và giới thiệu tới bạn đọc đề cương tuyên truyền Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) năm 2020. Đề cương được biên soạn dựa trên Hồ sơ Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) năm 2020 được đăng tải công khai trên Cổng thông tin điện tử của Quốc Hội.

Đề cương tuyên truyền Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) năm 2020 gồm có 2 phần: Phần 1. Sự cần thiết ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) . Phần 2. Những nội cơ bản và điểm mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) năm 2020.

Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) năm 2020
Đề cương tuyên truyền Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) năm 2020

I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI BAN HÀNH LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS:

1. Một số kết quả đạt được trong 13 năm thực hiện Luật Phòng, chống HIV/AIDS:

Sau khi Luật phòng, chống HIV/AIDS năm 2006 (sau đây viết tắt là Luật HIV 2006) được ban hành, công tác tuyên truyền, phổ biến và tổ chức triển khai Luật đã được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, đồng bộ với sự tham gia tích cực của các cơ quan, ban ngành, đoàn thể và sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế. Hệ thống văn bản quy định chi tiết thi hành Luật, văn bản hướng dẫn chuyên môn đã được xây dựng đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, với tổng số 03 Nghị định của Chính phủ; 08 Quyết định, 02 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; gần 200 Thông tư, Thông tư liên tịch và Quyết định của Bộ Y tế. Nhờ đó, công tác phòng, chống HIV/AIDS đã đạt được những kết quả tích cực:

– Tình hình nhiễm HIV tại Việt Nam đã giảm. Số ca nhiễm HIV phát hiện mới và tử vong giảm liên tục từ năm 2008 đến nay. Kể từ ca nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện từ năm 1990 tại TP. Hồ Chí Minh, cho đến nay, hiện trên toàn quốc đang báo cáo 212.000 người đang nhiễm HIV và 103.000 người nhiễm HIV đã tử vong.

– Hệ thống tổ chức, mạng lưới người làm công tác phòng, chống HIV/AIDS từ trung ương đến xã, phường đã được thiết lập và kiện toàn. Các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS được triển khai đồng bộ, đa dạng, phù hợp với tình hình thực tế của từng địa phương. Hằng năm, các cơ sở phòng, chống HIV/AIDS đã tạo điều kiện tiếp cận, cung cấp dịch vụ can thiệp giảm hại, xét nghiệm HIV cho gần 700.000 người có hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV, điều trị cho gần 53.000 người nghiện ma túy, điều trị cho 144.600 người nhiễm HIV và dự phòng cho gần 2.000 phụ nữ mang thai nhiễm HIV. Trong hơn 10 năm qua, Việt Nam liên tục đạt ba giảm: giảm số người mới nhiễm HIV, giảm số chuyển sang AIDS và giảm tử vong; kiểm soát tỷ lệ nhiễm HIV trong cộng đồng dưới 0,3%. Theo kết quả đánh giá của UNAIDS, từ năm 2000 đến nay, Việt Nam đã dự phòng cho 400.000 người không bị lây nhiễm HIV và 150.000 người không bị tử vong do AIDS. Việt Nam là một trong 4 quốc gia cùng với Anh, Đức, Thụy Sĩ có chất lượng điều trị HIV/AIDS tốt nhất thế giới với tỷ lệ người nhiễm HIV được điều trị ARV có tải lượng virus dưới ngưỡng ức chế đạt 96%, góp phần giảm lây nhiễm HIV trong cộng đồng.

– Nhận thức của người dân về HIV/AIDS và các biện pháp phòng, chống HIV/AIDS đã được nâng cao, giảm sự kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV và gia đình họ. Người nhiễm HIV đã được tạo điều kiện, hỗ trợ về hòa nhập cộng đồng, an sinh xã hội, học tập, làm việc và tích cực tham gia công tác phòng, chống HIV/AIDS.

Những kết quả đạt được nêu trên đã được quốc tế đánh giá cao, là thành công trong thực hiện Luật. Tuy nhiên, các kết quả này cần được nâng cao và phát huy hơn nữa trong thời gian tới thì mới đạt được mục tiêu chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030.

2. Một số tồn tại, bất cập trong các quy định của Luật phòng, chống HIV/AIDS cần phải được khắc phục kịp thời:

Thứ nhất, quy định liên quan đến đối tượng được thông báo kết quả xét nghiệm HIV, đối tượng được tiếp cận thông tin người nhiễm HIV còn thiếu và bất cập gây ảnh hưởng đến quá trình thực hiện. Theo Luật HIV 2006, chỉ những người trực tiếp chăm sóc điều trị cho người nhiễm HIV được thông báo kết quả xét nghiệm HIV và chưa có quy định cụ thể ai được quyền tiếp cận thông tin người nhiễm HIV. Điều này làm phát sinh một số khó khăn, bất cập như: nhiều người nhiễm HIV đã biết tình trạng HIV nhưng vẫn làm lây nhiễm HIV cho người khác; do không tiếp cận được thông tin người nhiễm nên không thể xác định được đối tượng, khu vực lây nhiễm HIV cao để có biện pháp chống HIV/AIDS phù hợp; gây khó khăn trong thực hiện các quy định, chính sách bảo hiểm y tế, khám bệnh, chữa bệnh trong quá trình chăm sóc và điều trị người nhiễm HIV, chưa bảo đảm đồng bộ với Luật khám bệnh, chữa bệnh, Luật bảo hiểm y tế, Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm,…

Thứ hai, một số quy định của pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS không còn phù hợp với điều kiện thực tiễn:

– Quy định người dưới 16 tuổi khi thực hiện xét nghiệm phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha, mẹ hoặc người giám hộ không phù hợp với thực tiễn và hạn chế quyền tiếp cận dịch vụ xét nghiệm HIV, quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em. Thực tế hiện nay, trẻ từ 15 tuổi nhiễm HIV có quan hệ tình dục rất lo ngại, không dám tiết lộ nguy cơ lây nhiễm HIV cho cha mẹ để cha mẹ đồng ý cho nhân viên y tế thực hiện xét nghiệm HIV. Các cơ sở, nhân viên y tế không xét nghiệm cho trẻ dưới 16 tuổi nếu không có cha mẹ hoặc người giám hộ đi cùng. Từ đó, trẻ sẽ mất đi cơ hội được xét nghiệm phát hiện và điều trị sớm HIV. Việc giới hạn độ tuổi 16 cũng không còn phù hợp với sự phát triển thể chất, tâm sinh lý và nhận thức của trẻ em Việt Nam hiện nay do trẻ đã phát triển và trưởng thành hơn so với giai đoạn trước, bối cảnh xã hội cũng có thay đổi hơn. Bên cạnh đó, quy định này cũng chưa phù hợp với khuyến cáo của Tổ chức y tế thế giới, các tổ chức quốc tế và pháp luật của một số nước (nhiều nước chỉ giới hạn từ dưới 14 hoặc dưới 15 tuổi).

– Quy định chỉ cơ sở xét nghiệm HIV được Bộ trưởng Bộ Y tế công nhận mới được phép khẳng định các trường hợp HIV dương tính không phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính, phân cấp và gây tốn kém kinh phí cho cơ sở y tế địa phương khi phải thực hiện thủ tục hành chính tại cơ quan trung ương.

– Quy định phụ nữ mang thai tự nguyện xét nghiệm HIV được miễn phí nhưng Nhà nước lại không bảo đảm đủ nguồn lực. Quy định này cũng chưa rõ ràng, chưa đồng bộ với Luật bảo hiểm y tế nên gây khó khăn cho việc thanh toán bảo hiểm y tế của người nhiễm HIV có thẻ bảo hiểm y tế do bảo hiểm y tế sẽ không chi trả do quy định được nhà nước chi trả.

– Quy định các thông điệp truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS được thực hiện miễn phí trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết các cơ quan truyền thông đều hoạt động theo cơ chế tự chủ, nên quy định này không khả thi và thực tế đa số vẫn phải chi trả kinh phí truyền thông.

– Quy định tại Điều 42 về áp dụng pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, xử lý vi phạm hành chính đối với người bị xử lý hình sự, hành chính mà bị bệnh AIDS giai đoạn cuối không còn phù hợp với thực tế diễn biến bệnh trong điều trị và tiến bộ của kỹ thuật y tế hiện nay. Mặc dù nhiễm HIV được chia làm 4 giai đoạn, trong đó giai đoạn 4 là giai đoạn chuyển sang bệnh AIDS nhưng hiện nay một người nhiễm HIV có thể chuyển từ giai đoạn 4 về giai đoạn 1, 2, 3 tùy thuộc vào việc điều trị ARV nên sẽ có trường hợp giai đoạn 4 nhưng vẫn có thể cải thiện được. Điều này dẫn đến khó xác định được thời điểm tạm đình chỉ điều tra, miễn chấp hành hình phạt hoặc khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định rồi thì đối tượng lại có tiến triển tốt về sức khỏe. Mặt khác, các quy định này đều dẫn chiếu thực hiện theo pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự, xử lý vi phạm hành chính nên không cần thiết quy định tại Luật này mà thực hiện theo các Luật có liên quan.

Thứ ba, giữa Luật xử lý vi phạm hành chính, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống ma túy và Luật phòng, chống HIV/AIDS đang có sự mâu thuẫn về quy định người nghiện ma túy tham gia điều trị nghiện bằng thuốc thay thế theo quy định của pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS vẫn có thể bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả điều trị cho người nghiện ma túy.

Các bất cập tồn tại này cần sớm được sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính đồng bộ cũng như nâng cao hiệu quả thực hiện Luật.

3. Việc sửa đổi, bổ sung Luật là yêu cầu cần thiết để bảo đảm thể chế hóa đầy đủ, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng về công tác phòng, chống HIV/AIDS:

Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân đã đặt ra mục tiêu vào năm 2030 Việt Nam về cơ bản chấm dứt dịch bệnh AIDS. Do đó, để đạt được mục tiêu này thông qua việc đưa tỷ lệ người nhiễm HIV xuống dưới 1.000 ca mỗi năm thì cần phải điều chỉnh, tăng cường một số chính sách cần thiết và tăng hiệu lực, tính khả thi của các quy định trong Luật.

4. Việc sửa đổi, bổ sung Luật cần được thực hiện để đáp ứng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật mới và tình hình dịch tễ HIV/AIDS trong thời gian tới:

– Các kết quả điều trị cho thấy việc sử dụng thuốc kháng vi rút HIV để điều trị dự phòng trước khi nhiễm HIV cho các nhóm nguy cơ lây nhiễm HIV cao rất có hiệu quả trong phòng ngừa và giảm tỷ lệ nhiễm HIV[1]. Do đó, cần bổ sung biện pháp này trong Luật để bảo đảm tính dự phòng.

– Các kỹ thuật xét nghiệm HIV hiện nay ngày càng được cải tiến và phát triển, nhiều kỹ thuật thực hiện đơn giản hơn so với trước đây như sinh phẩm xét nghiệm nhanh bằng giọt máu đầu ngón tay, tự xét nghiệm bằng dịch miệng. Việc xét nghiệm khẳng định một trường hợp HIV dương tính cũng đơn giản hơn, xét nghiệm sàng lọc HIV có thể thực hiện ngoài cơ sở y tế, thực hiện tại cộng đồng mà không cần nhân viên y tế thực hiện. Do vậy, cần điều chỉnh quy định của Luật để triển khai kỹ thuật xét nghiệm thuận lợi hơn.

– Thực tiễn điều trị ARV ngay cho người nhiễm HIV nhằm làm giảm lượng vi rút trong máu đến ngưỡng không lây truyền HIV cho người khác khi quan hệ tình dục cho thấy hiệu quả phòng ngừa cao. Do đó, cần có cơ sở pháp lý để người nhiễm HIV được tiếp cận ngay và có điều kiện tư vấn, thuyết phục họ điều trị sớm ARV.

– Tình hình lây nhiễm HIV trong nhóm quan hệ tình dục đồng giới nam, nhóm vợ, bạn tình của người nhiễm HIV tăng nhanh, trong khi nhóm này khó nhận dạng, khó tiếp cận do kỳ thị. Do đó, cần thay đổi phương pháp tiếp cận bằng cách tìm theo dấu vết, mạng lưới của người nhiễm để tìm kiếm những người có nguy cơ cao nhất lây nhiễm HIV. Điều này chỉ hiệu quả khi biết thông tin của người nhiễm HIV và được quyền tiếp cận họ sớm. Để thực hiện được thì cần bổ sung đối tượng cần thiết được tiếp cận thông tin người nhiễm để phục vụ và bảo vệ quyền lợi cho chính người nhiễm HIV.

– Việc điều trị dự phòng lây nhiễm từ mẹ sang con của những cặp vợ chồng nhiễm HIV đạt tỷ lệ thành công trong nhóm người được điều trị dự phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang con với 98% mang lại hiệu quả và niềm hạnh phúc cho nhiều gia đình . Vì vậy, cần phải có chính sách phù hợp hơn để các đối tượng này tiếp cận các dịch vụ điều trị lây truyền HIV từ mẹ sang con.

5. Nguồn kinh phí hiện nay không bảo đảm đủ điều kiện thực hiện các biện pháp phòng, chống HIV/AIDS nên cần được điều chỉnh phù hợp:

Hiện nay, nguồn viện trợ quốc tế đang cắt giảm nhanh, nguồn lực trong nước hạn chế nên không bảo đảm bao phủ được các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS, đặc biệt các hoạt động truyền thông, can thiệp giảm tác hại và dự phòng lây nhiễm HIV. Hiện nay người nhiễm HIV trong các trại giam không có thuốc điều trị ARV nếu nhà nước không hỗ trợ. Do đó, cần bổ sung các giải pháp tăng cường nguồn lực trong nước, nguồn lực từ bảo hiểm y tế, xã hội hóa để bảo đảm không ai bị để lại phía sau như đã cam kết với cộng đồng quốc tế cũng như thực hiện được mục tiêu chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030.

6. Các kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị của các tổ chức y tế, phòng, chống HIV/AIDS hàng đầu thế giới cho thấy yêu cầu cần có các biện pháp hiệu quả hơn trong thời gian tới:

Xu thế quốc tế hiện nay tập trung dự phòng đặc hiệu, gồm xét nghiệm sớm và điều trị ngay, dự phòng trước phơi nhiễm HIV bằng thuốc cho những người nguy cơ cao như nhóm người quan hệ tình dục đồng giới nam, người có vợ, chồng bị nhiễm HIV nhưng chưa bị nhiễm HIV… Các quốc gia phát triển và các tổ chức quốc tế đang giảm dần kinh phí cho hoạt động phòng, chống HIV/AIDS trên toàn cầu, các ưu tiên của họ tập trung cho các nước có dịch HIV/AIDS cao. Còn các quốc gia thuộc nhóm thu nhập trung bình, chỉ tập trung hỗ trợ kỹ thuật. Các tổ chức quốc tế chuyên về phòng, chống HIV/AIDS như UNAIDS khuyến cáo các nước cũng như Việt Nam cần tập trung nguồn lực, cải cách thể chế mạnh hơn nữa để tiếp tục duy trì cam kết đáp ứng các Mục tiêu 90-90-90 vào năm 2020 và tiến tới chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030 để HIV không còn là mối đe dọa tới sức khỏe cộng đồng và là một trong các mục tiêu phát triển bền vững.

Như vậy, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống HIV/AIDS là hết sức cần thiết, góp phần tạo cơ sở pháp lý mạnh mẽ và toàn diện để nâng cao hiệu quả của công tác phòng, chống HIV/AIDS, thúc đẩy hoàn thành mục tiêu chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030.

II. NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2021.

+ Đối với sửa đổi, bổ sung Điều 30 về thông báo kết quả xét nghiệm HIV dương tính và tiếp cận thông tin người nhiễm HIV. Luật quy định, người đứng đầu cơ sở quy định tại khoản 2 Điều 29 của Luật này có trách nhiệm thực hiện việc thông báo kết quả xét nghiệm HIV dương tính. Kết quả xét nghiệm HIV dương tính chỉ được thông báo cho những người sau đây: Người được xét nghiệm; Vợ hoặc chồng của người được xét nghiệm; cha, mẹ hoặc người giám hộ của người được xét nghiệm là người dưới 18 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; Người được giao nhiệm vụ trực tiếp tư vấn, thông báo kết quả xét nghiệm HIV dương tính cho người được xét nghiệm; Người đứng đầu cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ giám sát dịch tễ học HIV/AIDS; người được giao nhiệm vụ giám sát dịch tễ học HIV/AIDS; Người đứng đầu, điều dưỡng viên trưởng của khoa, phòng, đơn vị khác của cơ sở y tế có người nhiễm HIV được điều trị; nhân viên y tế được giao trách nhiệm trực tiếp điều trị, chăm sóc cho người nhiễm HIV tại cơ sở y tế; Người đứng đầu, người phụ trách y tế, nhân viên y tế được giao nhiệm vụ trực tiếp chăm sóc sức khỏe cho người nhiễm HIV tại cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện ma túy, cơ sở bảo trợ xã hội, trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giam giữ khác; Người đứng đầu và cán bộ, công chức được giao trách nhiệm của các cơ quan quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật này.

  Luật quy định, người được tiếp cận thông tin về tình trạng nhiễm HIV của người nhiễm HIV bao gồm: Người quy định tại điểm d khoản 2 Điều này; Người đứng đầu, người được giao nhiệm vụ của cơ quan bảo hiểm xã hội trực tiếp thực hiện việc giám định, thanh toán, quản lý thông tin khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế cho người nhiễm HIV; Người đứng đầu, người được giao nhiệm vụ của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khi trực tiếp thực hiện việc thanh toán, quản lý thông tin khám bệnh, chữa bệnh cho người nhiễm HIV; Người được người nhiễm HIV đồng ý cho phép tiếp cận thông tin của chính người nhiễm HIV.

+ Đối với sửa đổi, bổ sung Điều 36 về điều trị dự phòng trước và sau phơi nhiễm với HIV, Luật quy định người có nguy cơ phơi nhiễm với HIV, người phơi nhiễm với HIV được tư vấn, điều trị dự phòng trước và sau phơi nhiễm với HIV. Ưu tiên tiếp cận tư vấn, điều trị dự phòng trước phơi nhiễm với HIV cho các đối tượng được quy định tại các điểm b, c, d, đ, e và g khoản 2 Điều 11 của Luật này. Người bị phơi nhiễm với HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp, do rủi ro của kỹ thuật y tế được tư vấn, điều trị dự phòng lây nhiễm HIV và được hưởng các chế độ quy định tại Điều 46 của Luật này.

+ Đối với sửa đổi, bổ sung Điều 43 về nguồn tài chính cho phòng, chống HIV/AIDS, Luật quy định nguồn tài chính gồm: Ngân sách nhà nước; Quỹ bảo hiểm y tế; Chi trả của người sử dụng dịch vụ dự phòng, điều trị HIV/AIDS; Nguồn tài trợ, viện trợ, đầu tư, cho, biếu, tặng của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước; Các nguồn tài chính hợp pháp khác.

+ Đối với sửa đổi, bổ sung Điều 45 về chế độ, chính sách đối với người trực tiếp làm xét nghiệm HIV, quản lý, chăm sóc và điều trị người nhiễm HIV, Luật quy định, người trực tiếp làm xét nghiệm HIV, quản lý, chăm sóc và điều trị người nhiễm HIV tại cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện ma túy, cơ sở bảo trợ xã hội, trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giam giữ khác được ưu tiên trang bị phương tiện, dụng cụ cần thiết để phòng lây nhiễm HIV, hưởng các chế độ phụ cấp nghề nghiệp và các chế độ ưu đãi khác theo quy định của Chính phủ.

Decuongtuyentruyen.com sẽ sớm cập nhật những nội dung chính và điểm mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS), các bạn quan tâm theo dõi nhé.

Giới thiệu Đề cương Tuyên truyền

Đề cương tuyên truyền pháp luật (trang web thành viên của https://trangtinphapluat.com): Nơi cung cấp các đề cương tuyên truyền, nghiệp vụ tuyên truyền pháp luật Liên hệ: kesitinh355@gmail.com. Điện thoại, Zalo: 0935634572

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *