Sáng ngày 28/11/2024, Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, với 458/459 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành, đạt tỷ lệ 95,62% tổng số đại biểu, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam ( Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 2024)
- Đáp án Cuộc thi trực tuyến “Quân đội Nhân dân Việt Nam – 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành”
Decuongtuyentruyen.com biên soạn, giới thiệu tới bạn đọc đề cương tuyên truyền Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 2024. Đề cương gồm 02 phần: Phần 1 Sự cần thiết ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 2024. Phần 2 Nội dung cơ bản của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 2024
Phần 1 Sự cần thiết ban hành Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 2024
1. Cơ sở chính trị, pháp lý
a) Cơ sở chính trị
Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập và lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt. Sĩ quan Quân đội nhân dân là cán bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam, là lực lượng nòng cốt của Quân đội, thành phần chủ yếu trong đội ngũ cán bộ Quân đội, đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý hoặc trực tiếp thực hiện một số nhiệm vụ khác, bảo đảm cho quân đội sẵn sàng chiến đấu và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Để đội ngũ sĩ quan QĐND Việt Nam vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, hiện đại trong tình hình mới, bảo đảm cho Quân đội sẵn sàng chiến đấu và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao; những năm qua Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách như:
– Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định: “… tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; …”.
– Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/4/2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược quốc phòng Việt Nam và Kết luận số 31-KL/TW ngày 16/4/2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược quân sự Việt Nam xác định phương hướng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân là: “Tiếp tục thực hiện việc điều chỉnh tổ chức Quân đội… Tổ chức Quân đội theo hướng tinh, gọn, cơ động, có sức chiến đấu cao… ”.
– Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ xác định: “Quy định khung cơ chế, chính sách ưu đãi để phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài có trọng tâm, trọng điểm, nhất là các ngành, lĩnh vực mũi nhọn phục vụ cho phát triển nhanh và bền vững”.
– Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội: “Từ năm 2021, thực hiện điều chỉnh tuổi nghỉ hưu theo mục tiêu tăng tuổi nghỉ hưu chung, thu hẹp dần khoảng cách về giới trong quy định tuổi nghỉ hưu; đối với những ngành nghề đặc biệt, người lao động được quyền nghỉ hưu sớm, hoặc muộn hơn 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu chung”.
– Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 17/01/2022 của Bộ Chính trị về tổ chức QĐND Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo, trong đó Bộ Chính trị giao: “Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo phối hợp với các cơ quan tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan đến công tác quốc phòng, quân sự; sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật có liên quan đến cơ cấu, chức vụ, trần quân hàm của sĩ quan cấp tướng” và Nghị quyết số 230-NQ/QUTW ngày 02/4/2022 của Quân uỷ Trung ương về lãnh đạo thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TW của Bộ Chính trị xác định: “Đến năm 2025 cơ bản xây dựng QĐND Việt Nam tinh, gọn, mạnh; tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng QĐND Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”.
– Nghị quyết số 44-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới xác định: “Xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng… Đến năm 2025, cơ bản xây dựng QĐND tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng QĐND chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, làm nòng cốt trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.
– Kết luận số 86-KL/TW ngày 24/01/2014 của Bộ Chính trị về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ đã xác định đối với lực lượng vũ trang: “Sinh viên tốt nghiệp xuất sắc được phong quân hàm từ Trung úy và tương đương trở lên, hưởng hệ số lương khởi điểm là 4,60; cán bộ khoa học trẻ có trình độ thạc sĩ được phong quân hàm từ Thượng úy và tương đương trở lên…; cán bộ khoa học trẻ có trình độ tiến sĩ được phong quân hàm từ Đại úy và tương đương trở lên…; cán bộ khoa học trẻ có trình độ tiến sĩ khoa học được phong quân hàm từ Thiếu tá và tương đương trở lên…”.
– Kết luận số 35-KL/TW ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị, trong đó giao : Quân ủy Trung ương xây dựng đề án danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy trong QĐND bảo đảm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của Quân đội; đồng bộ, thống nhất với các chức danh, chức vụ lãnh đạo và tương đương trong hệ thống chính trị.
– Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 24/5/2024 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát triển nhà ở xã hội trong tình hình mới đã đặt ra yêu cầu đối với các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội: “Nghiên cứu ban hành cơ chế, chính sách đặc thù về nhà ở xã hội cho công nhân và lực lượng vũ trang nhân dân”.
– Kết luận của Bộ Chính trị tại Văn bản số 10809-CV/VPTW ngày 06/8/2024 của Văn phòng Trung ương Đảng; trong đó, Bộ Chính trị đồng ý chủ trương trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV theo quy trình một kỳ họp, trình tự, thủ tục rút gọn và một số cơ chế, chính sách đặc biệt đối với sĩ quan QĐND Việt Nam.
b) Cơ sở pháp lý
Từ khi Luật Sĩ quan năm 1999 có hiệu lực thi hành (ngày 01/4/2000), đã có nhiều chính sách, pháp luật của Nhà nước được ban hành, như: Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng năm 2015, Luật Quốc phòng năm 2018, Luật Dân quân tự vệ năm 2019, Bộ luật Lao động năm 2019, Luật Nhà ở năm 2023, Luật Khám chữa bệnh năm 2023, Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp năm 2024, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024,… có quy định liên quan hoặc tác động đến đối tượng là sĩ quan QĐND Việt Nam. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung Luật Sĩ quan để bảo đảm phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành và tính chất, nhiệm vụ của Quân đội “là ngành lao động đặc biệt”.
2. Cơ sở thực tiễn
Luật Sĩ quan năm 1999 được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2008, năm 2014 và năm 2019 (Luật Dân quân tự vệ sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 41 Luật Sĩ quan); quá trình thực hiện, Luật Sĩ quan đã tạo cơ sở pháp lý để xây dựng đội ngũ sĩ quan vững mạnh, làm nòng cốt xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi và kết quả đạt được, quá trình thực hiện Luật Sĩ quan đã bộc lộ một số vướng mắc bất cập, tập trung vào các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, Điều 11 Luật Sĩ quan quy định sĩ quan có 11 chức vụ cơ bản, trong đó, không quy định chức vụ cơ bản là cấp phó nên chưa cụ thể hóa các chức vụ, chức danh theo quy định của Bộ Chính trị tại Quy định số 80-QĐ/TW ngày 18/8/2022 về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; Kết luận số 35-KL/TW ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị về Danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo và tương đương của hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; Đề án số 573-ĐA/QUTW ngày 16/10/2023 của Quân ủy Trung ương về Danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý trong QĐND Việt Nam (gồm 17 chức vụ cơ bản) được Bộ Chính trị giao Ban Tổ chức Trung ương thẩm định nhất trí thông qua (Văn bản số 2343-CV/BTCTW ngày 09/11/2023). Việc chưa quy định chức vụ cơ bản là cấp phó, cấp có thẩm quyền chỉ huy, quản lý trong Quân đội theo tổ chức, biên chế, Điều lệnh quản lý bộ đội QĐND Việt Nam, như: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tổng Tham mưu trưởng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Phó Tư lệnh, Phó Chính ủy Quân khu, Quân chủng, Bộ đội Biên phòng, Quân đoàn… nên chưa khẳng định được vị trí, vai trò, chức trách của chức vụ này, chưa phân định quyền hạn cấp trên, cấp dưới trong chỉ huy, ra mệnh lệnh, chấp hành điều lệnh, điều lệ, kỷ luật Quân đội.
Hệ thống chức vụ của sĩ quan trong Luật Sĩ quan chưa đồng bộ với cơ cấu tổ chức của Bộ Quốc phòng quy định tại Điều 3 Nghị định số 01/2022/NĐ-CP ngày 30/11/2022 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Quốc phòng, gồm: Bộ Tổng Tham mưu QĐND Việt Nam, Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam và các tổng cục, cục, vụ, quân khu, quân chủng, Bộ đội Biên phòng, quân đoàn, binh chủng, Bộ Tư lệnh, cơ quan quân sự địa phương…
Mặt khác, Điều 11 Luật Sĩ quan quy định chức vụ cơ bản và chức vụ, chức danh tương đương đối với cấp trưởng, chưa quy định đối với cấp phó, trong khi đó Quân đội có 6.277 chức vụ, 12.310 chức danh nên việc xác định chức vụ, chức danh tương đương với cấp phó và sĩ quan không giữ chức vụ chỉ huy, quản lý gặp khó khăn, chưa đảm bảo hành lang pháp lý đầy đủ để thực hiện quy hoạch, bố trí, sắp xếp, bổ nhiệm và thực hiện chế độ chính sách đối với sĩ quan được bổ nhiệm chức vụ Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam, các chức vụ là cấp phó của cấp trưởng và tương đương.
Thứ hai, khoản 1 Điều 13 Luật Sĩ quan quy định hạn tuổi phục vụ tại ngũ cao nhất của sĩ quan (cấp úy 46; Thiếu tá 48; Trung tá 51; Thượng tá 54; Đại tá nam 57, nữ 55 và cấp tướng nam 60, nữ 55) cơ bản phù hợp với đặc thù hoạt động quân sự; tuy nhiên chưa tận dụng được nguồn nhân lực có trình độ, kinh nghiệm, sức khỏe; chưa bảo đảm chế độ, chính sách cho một bộ phận cán bộ khi nghỉ hưu theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội.
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy tinh nhuệ, hiện đại và trước tác động của các yếu tố an ninh truyền thống, phi truyền thống cần giữ gìn đội ngũ sĩ quan được đào tạo cơ bản, có bản lĩnh, trình độ, kinh nghiệm, sức khỏe; điều chỉnh nâng hạn tuổi phục vụ tại ngũ để sĩ quan có thời gian phục vụ Quân đội dài hơn, giảm áp lực đào tạo cán bộ, phù hợp tính chất, nhiệm vụ của Quân đội “là ngành lao động đặc biệt”. Bảo đảm phù hợp tính chất, nhiệm vụ của sĩ quan phải thường xuyên trực tiếp chỉ huy, quản lý, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu trong điều kiện khó khăn, gian khổ, đóng quân làm nhiệm vụ ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo…
Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội, người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 35 năm đối với nam và 30 năm đối với nữ mới được hưởng mức lương hưu tối đa bằng 75%. Vì vậy, nâng tuổi phục vụ tại ngũ sẽ bảo đảm cho sĩ quan cấp Trung tá trở xuống khi nghỉ hưu có đủ số năm tham gia bảo hiểm xã hội để được hưởng lương hưu mức tối đa 75%, thể hiện chính sách ưu việt, làm cơ sở để thu hút, gìn giữ nguồn nhân lực phục vụ Quân đội. Mặt khác, việc tăng hạn tuổi phục vụ tại ngũ cao nhất của sĩ quan còn bảo đảm kịp thời phục vụ công tác nhân sự cán bộ cho Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.
Cùng với việc tăng hạn tuổi phục vụ tại ngũ cao nhất của sĩ quan, để bảo đảm cho sĩ quan khi nghỉ hưu đăng ký và phục vụ trong ngạch dự bị, sẵn sàng động viên, tổng động viên vào phục vụ Quân đội khi có tình huống; việc tăng hạn tuổi phục vụ của sĩ quan dự bị cấp tá, cấp úy từ 01 đến 02 tuổi là cần thiết để giữ gìn, phát huy được đội ngũ sĩ quan có năng lực, kinh nghiệm, bản lĩnh khi được sắp xếp vào các vị trí dự bị động viên; tiết kiệm được ngân sách đào tạo bổ sung vào nguồn sĩ quan dự bị thay thế các sĩ quan dự bị hết tuổi phải giải ngạch.
Thứ ba, khoản 1 Điều 15 Luật Sĩ quan quy định cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh của sĩ quan là cấp tướng; hiện nay, một số đơn vị đã có sự điều chỉnh, phát triển về quy mô tổ chức, biên chế, bổ sung chức năng, nhiệm vụ và được điều chỉnh chức vụ, chức danh tương đương Tư lệnh, Chính ủy Binh chủng (cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ Tư lệnh, Chính ủy Binh chủng là Thiếu tướng) theo Kết luận số 35-KL/TW ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị và Đề án số 573-ĐA/QUTW ngày 16/10/2023 của Quân ủy Trung ương chưa được quy định trong Luật Sĩ quan; do đó, cần điều chỉnh, bổ sung, bảo đảm cân đối giữa các cơ quan, đơn vị trong toàn quân, thể hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của Quân đội là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất, tạo động lực cho lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị tiếp tục phấn đấu, hoàn thành tốt chức trách nhiệm vụ.
Khoản 4 Điều 15 Luật Sĩ quan quy định: “Cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh của sĩ quan là cấp tướng của đơn vị thành lập mới do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định” nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn đặt ra; tuy nhiên, quá trình thực hiện đã nảy sinh vướng mắc, bất cập. Thực hiện các Nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tổ chức QĐND Việt Nam; đặc biệt là Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 17/01/2022 của Bộ Chính trị về tổ chức QĐND Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo; Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã lãnh đạo, tổ chức thực hiện điều chỉnh tổ chức Quân đội, theo đó một số đơn vị không thay đổi về tên gọi nhưng có sự điều chỉnh, phát triển về quy mô tổ chức, biên chế và bổ sung chức năng, nhiệm vụ nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị đã gặp vướng mắc trong đề nghị cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh sĩ quan là cấp tướng. Do chưa có sự thống nhất cách hiểu để các đơn vị này được xem là đơn vị thành lập mới, nên Ủy ban Thường vụ Quốc hội không xem xét, quyết định theo khoản 4 Điều 15 Luật Sĩ quan nêu trên.
Thứ tư, ngoài các nội dung trọng tâm nêu trên, quá trình thực hiện Luật Sĩ quan cũng phát sinh một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn, như:
(1) Khoản 4 Điều 17 Luật Sĩ quan chưa giao cơ quan có thẩm quyền quy định cụ thể về tiêu chí, tiêu chuẩn được xét thăng quân hàm vượt bậc; Điều 18 chưa quy định sĩ quan được nâng lương trước thời hạn và chưa giao cơ quan có thẩm quyền quy định cụ thể về tiêu chí, tiêu chuẩn được xét thăng quân hàm và nâng lương sĩ quan trước thời hạn.
(2) Chưa quy định sĩ quan do yêu cầu nhiệm vụ mà không được bố trí nghỉ hằng năm do đặc thù quân sự, thường xuyên phải trực sẵn sàng chiến đấu, phải huấn luyện, diễn tập hoặc làm nhiệm vụ quốc tế, gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc thì ngoài tiền lương còn được thanh toán thêm một khoản bằng tiền lương cho những ngày không được nghỉ; trong khi đó Luật Công an nhân dân đã quy định cụ thể về nội dung này. Một số chế độ, chính sách đất ở, nhà ở, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với sĩ quan và thân nhân sĩ quan tại ngũ chưa được thể chế hóa theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp và chưa thống nhất với Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024. Mặt khác, chế độ an điều dưỡng, chăm sóc khi mắc bệnh hiểm nghèo, chế độ thông tin, hỗ trợ tang lễ khi từ trần đối với sĩ quan thôi phục vụ tại ngũ cần được quy định trong luật để thể hiện chính sách ưu việt của Đảng và Nhà nước dành cho sĩ quan Quân đội.
(3) Điều 41 Luật Sĩ quan quy định học viên tốt nghiệp đào tạo sĩ quan dự bị được phong quân hàm Thiếu úy sĩ quan dự bị nên chưa tạo được động lực để thu hút đối với sinh viên tốt nghiệp đại học và người có trình độ sau đại học được gọi đào tạo sĩ quan dự bị; mặt khác, chưa quy định cấp có thẩm quyền quy định chi tiết đối với các nội dung liên quan tại Điều này.
(4) Chưa cụ thể hóa trách nhiệm của bộ, ngành, địa phương trong việc chủ trì hoặc phối hợp với Bộ Quốc phòng thực hiện quản lý nhà nước, điều kiện thực hiện chế độ, chính sách đối với sĩ quan tại ngũ, sĩ quan thôi phục vụ tại ngũ, gia đình sĩ quan, nhất là ưu tiên bố trí quỹ đất để phát triển nhà ở xã hội cho Quân đội để bảo đảm chính sách ưu đãi của Đảng, Nhà nước dành cho Quân đội được thực hiện trên thực tế.
Từ những lý do nêu trên, việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan là cần thiết, nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý, đáp ứng yêu cầu xây dựng QĐND Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.
Phần 2 Nội dung cơ bản của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 2024
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 1-12-2024.
Cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh của sĩ quan được quy định như sau:
– Đại tướng, số lượng không quá 3, bao gồm: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Tổng Tham mưu trưởng; Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị;
– Thượng tướng, Đô đốc Hải quân, số lượng không quá 14, bao gồm: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng có cấp bậc quân hàm cao nhất là Thượng tướng, Đô đốc Hải quân: số lượng không quá 6; Phó tổng Tham mưu trưởng, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị: Mỗi chức vụ số lượng không quá 3; Giám đốc, Chính ủy Học viện Quốc phòng;
– Các chức vụ, chức danh có cấp bậc quân hàm cao nhất là Trung tướng, Phó đô đốc Hải quân; Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân: số lượng không quá 398.
Hạn tuổi cao nhất của sĩ quan phục vụ tại ngũ theo cấp bậc quân hàm:
Cấp úy: 50;
Thiếu tá: 52;
Trung tá: 54;
Thượng tá: 56;
Đại tá: 58;
Cấp tướng: 60
Decuongtuyentruyen.com sẽ tiếp tục cập nhật những điểm mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 2024