Ngày 25/11/2019, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa 14 thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức, có hiệu lực từ 01/7/2020.
Decuongtuyentruyen.com biên soạn, giới thiệu tới bạn đọc đề cương tuyên truyền Luật cán bộ, công chức, Luật viên sửa đổi năm 2019.
1 . SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC VÀ LUẬT VIÊN CHỨC
Ngày 13/11/2008, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Cán bộ, công chức (sau đây viết tắt là Luật CBCC), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010 và ngày 15/11/2010, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Viên chức, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012. Việc quy định tách bạch chế độ quản lý cán bộ, công chức và viên chức tại 02 luật đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đẩy mạnh cải cách chế độ công chức, công vụ, tạo điều kiện thu hút và sử dụng đội ngũ viên chức có đủ phẩm chất, trình độ, năng lực, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Quá trình thực hiện cho thấy, về cơ bản các quy định trong Luật CBCC và Luật Viên chức phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quá trình hội nhập quốc tế. Đến nay, sau 09 năm thực hiện Luật CBCC và 07 năm thực hiện Luật Viên chức, đặc biệt là sau khi có Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 và chủ trương của Đảng tại các Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 4, 5, 6, 7 và 8 khóa XII thì một số quy định của Luật CBCC và Luật Viên chức đã bộc lộ những bất cập, cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, đồng bộ với các quy định mới, cụ thể như sau:
- Về đối tượng là công chức
Luật CBCC quy định công chức bao gồm cả những người làm việc trong bộ máy lãnh đạo, quản lý trong đơn vị sự nghiệp công lập (sau đây viết tắt là đơn vị SNCL)[1]. Quy định này trên thực tế đã phát sinh một số vướng mắc trong quá trình thực hiện, đặc biệt là sự không thống nhất trong việc thực hiện chế độ, chính sách và áp dụng cơ chế quản lý đối với đối tượng làm việc trong cùng một đơn vị. Đồng thời, việc quy định áp dụng Luật CBCC đối với người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp cũng không còn phù hợp với thực tiễn và cơ chế hoạt động của doanh nghiệp[2]. Để tiếp tục thực hiện chủ trương “phân định rõ quản lý nhà nước với quản trị đơn vị SNCL” theo Nghị quyết số 19-NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 khóa XII thì cần thiết phải sửa đổi quy định đối tượng là công chức trong Luật.
- Về tuyển dụng công chức và liên thông trong công tác cán bộ
Quá trình tổng kết cho thấy việc thực hiện các quy định về tuyển dụng công chức hiện nay vẫn chưa gắn thẩm quyền của người trực tiếp sử dụng với thẩm quyền quyết định tuyển dụng. Quy định tuyển dụng chưa có độ “mở” cần thiết để có thể lựa chọn được đúng người phù hợp với công việc, đặc biệt là để thu hút nhân tài, tạo cơ chế liên thông giữa nguồn nhân lực ở khu vực công và khu vực tư. Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị Trung ương 7 khóa XII cũng xác định chủ trương “thống nhất việc kiểm định chất lượng đầu vào công chức để các địa phương, cơ quan, đơn vị lựa chọn, tuyển dụng theo yêu cầu, nhiệm vụ; đồng thời, nghiên cứu phân cấp kiểm định theo lĩnh vực đặc thù và theo vùng, khu vực”. Đây là phương thức mới, tác động đến quy trình, thủ tục tuyển dụng, cần nghiên cứu, thể chế hóa để làm căn cứ triển khai thực hiện.
Bên cạnh đó, mặc dù Luật CBCC, Luật Viên chức và các văn bản quy định chi tiết đã quy định về việc chuyển đổi vị trí công tác của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị nhưng vẫn còn một số vướng mắc, bất cập khi thực hiện liên thông giữa các nhóm đối tượng là cán bộ, công chức cấp xã với cán bộ, công chức cấp huyện trở lên; giữa viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập với cán bộ, công chức.
Để giải quyết các vướng mắc, khó khăn nêu trên, đồng thời thể chế hóa nghị quyết của Đảng, đặc biệt là chủ trương liên thông trong công tác cán bộ thì cần thiết sửa đổi những nội dung liên quan đến tuyển dụng công chức, viên chức.
- Về chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài
Quá trình thực hiện cho thấy các quy định hiện hành vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về tuyển chọn và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị. Các quy định về thu hút nhân tài chủ yếu mới chỉ ưu tiên về tuyển dụng đầu vào mà chưa tạo cơ chế, môi trường làm việc độc lập, cạnh tranh, sáng tạo để người tài có điều kiện phát huy tài năng, sở trường trong công tác.
- Về ngạch công chức
Theo quy định tại khoản 2 Điều 44 của Luật CBCC thì “Công chức có đủ tiêu chuẩn, điều kiện để đảm nhận vị trí việc làm tương ứng với ngạch cao hơn thì được đăng ký dự thi nâng ngạch.” Tuy nhiên, việc thi nâng ngạch trong thời gian vừa qua chưa đáp ứng đúng mục đích, yêu cầu; việc bố trí, sử dụng người được nâng ngạch chưa căn cứ vào vị trí việc làm; chất lượng của các kỳ thi nâng ngạch còn nhiều bất cập. Đối với một số trường hợp có thành tích vượt trội trong công tác chưa có hình thức xét nâng ngạch (tương tự như xét thăng hạng đối với viên chức). Việc quy định phân loại ngạch công chức “cứng” trong dự thảo Luật sẽ ảnh hưởng đến triển khai thực hiện chủ trương “sắp xếp lại nhóm ngạch và số bậc trong các ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức” và chủ trương “xây dựng 01 bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ theo ngạch công chức và chức danh nghề nghiệp viên chức áp dụng chung đối với công chức, viên chức không giữ chức danh lãnh đạo” theo Nghị quyết số 27-NQ/TW Hội nghị Trung ương 7 khóa XII.
- Về đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức
Việc thực hiện đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức trong thời gian vừa qua còn một số vướng mắc, cụ thể là:
- Các quy định về đánh giá, phân loại còn thiếu sự gắn kết giữa các tiêu chí đánh giá, phân loại với kết quả thực hiện công việc theo vị trí việc làm; công tác đánh giá còn hình thức, “cào bằng”, chưa thực sự tạo động lực trong việc rèn luyện, phấn đấu, chưa tạo cơ sở để loại bỏ những người có năng lực yếu kém;
- Việc triển khai đánh giá, phân loại chưa phù hợp với đặc điểm của từng loại hình cơ quan, tổ chức, đơn vị và đặc thù công việc của từng ngành, nghề, lĩnh vực;
- Các quy định về đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức còn có sự khác nhau giữa quy định của Đảng với quy định của Nhà nước[3].
Liên hệ gmail: trangtinphapluat2019@gmail.com hoặc kesitinh355@gmail.com để tải Slide bài giảng Luật Cán bộ, công chức, viên chức sửa đổi 2019.
6.Về xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức
Luật CBCC và Luật Viên chức hiện hành quy định thời hiệu xử lý kỷ luật là 24 tháng kể từ thời điểm có hành vi vi phạm đến khi phát hiện hành vi vi phạm kỷ luật. Quy định thời hiệu như vậy là quá ngắn, không bảo đảm tính nghiêm khắc đối với việc xử lý cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm. Có trường hợp đã bị xử lý kỷ luật về Đảng (hoặc đã bị xử lý hình sự nhưng cho hưởng án treo) nhưng khi xem xét xử lý kỷ luật theo quy định của Luật thì đã hết thời hiệu. Quy định này cũng chưa thống nhất với quy định về thời hiệu xử lý kỷ luật Đảng theo Quyết định số 102-QĐ/TW ngày 15/11/2017 của Ban Chấp hành Trung ương. Bên cạnh đó, trong thời gian vừa qua, một số trường hợp cán bộ, công chức đã nghỉ hưu nhưng có hành vi vi phạm trong quá trình công tác đã bị xử lý kỷ luật về Đảng và chính quyền. Vì vậy để bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ thì cũng cần sửa đổi, bổ sung các quy định tương ứng trong Luật.
- 7. Về cơ chế hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập
Trong thời gian vừa qua, Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp để triển khai chủ trương đổi mới cơ chế tổ chức, hoạt động của đơn vị SNCL nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy số lượng đơn vị SNCL còn nhiều, tổ chức bộ máy, khả năng quản trị – điều hành còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa tương xứng với nguồn lực đầu tư; việc phân cấp, giao quyền tự chủ cho các đơn vị SNCL theo hướng phân định rõ việc quản lý nhà nước với quản trị đơn vị SNCL chưa thực sự triệt để. Từ thực trạng đó đặt ra yêu cầu cần luật hóa một số chủ trương mang tính nguyên tắc để làm căn cứ pháp lý cho quá trình thực hiện.
- 8. Về hợp đồng làm việc đối với viên chức
Luật Viên chức quy định việc ký kết hợp đồng làm việc xác định thời hạn đối với người trúng tuyển vào viên chức, đồng thời quy định về chế độ tập sự đối với viên chức mới trúng tuyển. Tuy nhiên, Luật chưa có quy định cho phép người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng trong trường hợp viên chức không đạt kết quả sau thời gian tập sự. Điều này dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành. Đồng thời, Nghị quyết số 19-NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 khóa XII đã đề ra chủ trương “thực hiện chế độ hợp đồng viên chức có thời hạn đối với những trường hợp tuyển dụng mới (trừ các đơn vị SNCL ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn)”, cần được thể chế hóa khi sửa đổi, bổ sung Luật.
- Về chế độ thôi việc đối với viên chức
Theo quy định tại Điều 45 của Luật Viên chức thì khi chấm dứt hợp đồng làm việc với đơn vị SNCL, người chấm dứt hợp đồng được hưởng trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm hoặc chế độ bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về lao động và pháp luật về bảo hiểm xã hội[4]. Việc áp dụng các quy định này đã phát sinh bất hợp lý trong việc giải quyết chế độ thôi việc đối với trường hợp viên chức chuyển từ đơn vị SNCL này sang đơn vị SNCL khác[5] hoặc trường hợp viên chức đơn phương chấm dứt hợp đồng, không bảo đảm công bằng so với trường hợp viên chức nghỉ hưu[6]. Thực tế cũng đã xuất hiện việc “lách” chính sách khi viên chức chuẩn bị đến tuổi nghỉ hưu sẽ xin thôi việc để vừa được hưởng chính sách thôi việc, vừa được hưởng chính sách nghỉ hưu.
Để khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên và để kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thì việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật CBCC và Luật Viên chức là cần thiết.
2. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT
- Mục tiêu
Mục tiêu xây dựng dự án Luật là nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương đã được xác định rõ tại các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, 5, 6, 7 và 8 khóa XII của Đảng; giải quyết các bất cập, vướng mắc trong thực tiễn; đồng bộ với việc sửa đổi, bổ sung các luật quy định về tổ chức bộ máy và định hướng cải cách tiền lương đã được đề ra.
- Quan điểm chỉ đạo xây dựng dự án Luật
Một là, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng về công tác cán bộ.
Hai là, thể chế hóa đầy đủ quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng vào pháp luật;
Ba là, tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức, viên chức; đẩy mạnh việc thực hiện phân cấp, phân quyền; xử lý nghiêm các vi phạm, kể cả vi phạm của cán bộ, công chức, viên chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu.
Bốn là, tạo cơ chế liên thông trong công tác cán bộ, bảo đảm công tác quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức chất lượng, hiệu quả.
Năm là, kế thừa các quy định hiện hành, bảo đảm sự đồng bộ với các luật quy định về tổ chức bộ máy và các luật có liên quan; quy định phù hợp để định hướng thực hiện cải cách về tiền lương.
[1] Khoản 2 Điều 4 và điểm c khoản 1 Điều 32 của Luật CBCC.
[2] Khoản 3 Điều 84 của Luật CBCC giao “Chính phủ quy định cụ thể việc áp dụng Luật cán bộ, công chức đối với Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc, Giám đốc, Phó giám đốc, Kế toán trưởng và những người giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý khác trong các doanh nghiệp nhà nước; những người được Nhà nước cử làm đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn góp của Nhà nước.”.
[3] Cụ thể là, còn có sự khác nhau giữa Quy định số 89-QĐ/TW ngày 04/8/2017 của Bộ Chính trị với các quy định của pháp luật hiện hành về đánh giá, phân loại CBCCVC nói chung, theo đó:
– Về mức đánh giá: Quy định số 89-QĐ/TW quy định phân loại đánh giá cán bộ theo mức hoàn thành nhiệm vụ, trong khi đó pháp luật hiện hành quy định hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực;
– Về tiêu chí đánh giá: Quy định số 89-QĐ/TW bổ sung các tiêu chí đánh giá cụ thể đối với nhóm tiêu chí thực hiện chức trách, nhiệm vụ và quy định về tỷ lệ % hoàn thành nhiệm vụ được giao trong năm khác so với quy định của pháp luật hiện hành;
– Về quy trình, phương pháp đánh giá: Quy định số 89-QĐ/TW bổ sung một số quy định về quy trình, phương pháp đánh giá mới như việc lấy ý kiến nhận xét của cấp ủy nơi cư trú, tập thể đồng cấp nhận xét, đánh giá hoặc cấp dưới trực tiếp nhận xét, đánh giá (nếu có).
[4] Trừ trường hợp do bị buộc thôi việc, đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc mà vi phạm quy định hoặc khi được bổ nhiệm vào các vị trí được xác định là công chức.
[5] Thí dụ như trường hợp điều chuyển giáo viên, bác sỹ trên cùng một địa bàn…
[6] Theo quy định của pháp luật hiện hành thì khi nghỉ hưu sẽ không được hưởng chế độ trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc.
3. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, LUẬT VIÊN CHỨC SỬA ĐỔI 2019
(i) Luật này đã sửa đổi, bổ sung 28/86 điều của Luật Cán bộ, công chức liên quan đến những vấn đề cụ thể như:
Thứ nhất, về đối tượng là công chức và áp dụng quy định của Luật Cán bộ, công chức đối với các đối tượng khác: Không quy định công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập; không quy định áp dụng Luật Cán bộ, công chức đối với người giữ chức vụ, chức danh lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp nhà nước; bổ sung và giao Chính phủ quy định cụ thể đối với cán bộ, công chức sau khi nghỉ việc hoặc nghỉ hưu mới phát hiện có hành vi vi phạm trong thời gian công tác (áp dụng đối với cả người có hành vi vi phạm trước ngày 01/7/2020) thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm phải chịu một trong những hình thức kỷ luật khiển trách, cảnh cáo, xóa tư cách chức vụ đã đảm nhiệm; gắn hệ quả pháp lý tương ứng với hình thức xử lý kỷ luật (khoản 5 Điều 84).
Thứ hai, về chính sách trọng dụng và đãi ngộ người có tài năng trong hoạt động công vụ: Giao Chính phủ quy định khung chính sách, trên cơ sở đó phân cấp cho người đứng đầu bộ, cơ quan trung ương quyết định và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể đối với đối tượng thuộc phạm vi quản lý (Điều 6).
Thứ ba, về tuyển dụng công chức: Bổ sung đối tượng xét tuyển đối với người học theo chế độ cử tuyển, sinh viên tốt nghiệp xuất sắc và nhà khoa học trẻ tài năng (ngoài đối tượng cam kết làm việc 05 năm trở lên ở vùng đặc biệt khó khăn) (khoản 2 Điều 37); bổ sung và quy định rõ các đối tượng được tiếp nhận vào làm công chức từ cấp huyện trở lên đối với viên chức, cán bộ và công chức cấp xã, người hưởng lương trong lực lượng vũ trang, người làm công tác cơ yếu, người giữ chức vụ, chức danh lãnh đạo trong doanh nghiệp nhà nước và người đã từng là cán bộ, công chức (khoản 3 Điều 37)
Thứ tư, về nâng ngạch công chức: Bổ sung quy định “xét nâng ngạch” đối với 02 trường hợp là (i) có thành tích xuất sắc trong hoạt động công vụ trong suốt thời gian giữ ngạch hiện giữ; (ii) được bổ nhiệm chức vụ gắn với yêu cầu của vị trí việc làm tương ứng với ngạch cao hơn ngạch hiện giữ.
Thứ năm, về đánh giá và xếp loại cán bộ, công chức: Sửa cụm từ “phân loại đánh giá” thành “xếp loại chất lượng” và bỏ cụm từ “nhưng còn hạn chế về năng lực” trong mức “hoàn thành nhiệm vụ” đối với cán bộ, công chức để thống nhất với các quy định của Đảng; bổ sung nội dung đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phải gắn với vị trí việc làm thông qua công việc, sản phẩm cụ thể; đối với công chức lãnh đạo, quản lý còn phải gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ và không cao hơn mức xếp loại của cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp phụ trách.
Thứ sáu, về kỷ luật cán bộ, công chức: Quy định 03 loại thời hiệu xử lý kỷ luật là 02 năm, 05 năm và các trường hợp không áp dụng thời hiệu; nâng thời hạn xử lý kỷ luật lên 90 ngày và 150 ngày (quy định hiện hành là 60 ngày và 90 ngày); quy định rõ việc bổ nhiệm khi bị kỷ luật (theo đó, không bổ nhiệm vào chức vụ cao hơn trong thời hạn 12 tháng nếu bị kỷ luật khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương; không bổ nhiệm giữ chức vụ trong thời hạn 24 tháng nếu bị kỷ luật giáng chức, cách chức).
(ii) Luật này đã sửa đổi, bổ sung 15/62 điều của Luật Viên chức liên quan đến những vấn đề cụ thể như:
Thứ nhất, về đánh giá viên chức; thời hiệu, thời hạn xử lý kỷ luật viên chức; xử lý kỷ luật đối với viên chức sau khi nghỉ việc, nghỉ hưu mới phát hiện có hành vi vi phạm trong thời gian công tác.
Thứ hai, về ký hợp đồng làm việc xác định thời hạn đối với viện chức: (i) Sửa đổi quy định về áp dụng ký kết hợp đồng làm việc xác định thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng đối với viên chức được tuyển dụng mới sau ngày 01/7/2020. Đồng thời, quy định rõ 03 trường hợp: Đã tuyển dụng trước ngày 01/7/2020; cán bộ, công chức chuyển sang làm viên chức; viên chức được tuyển dụng sau 01/7/2020 nhưng làm việc tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn thì vẫn áp dụng chế độ hợp đồng làm việc không xác định thời hạn. (ii) Bổ sung quy định trường hợp đơn vị sự nghiệp công lập còn nhu cầu, viên chức đáp ứng đầy đủ các yêu cầu theo quy định của pháp luật thì người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập phải ký kết tiếp hợp đồng làm việc với viên chức; trường hợp không ký kết tiếp hợp đồng làm việc với viên chức thì người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập phải nêu rõ lý do bằng văn bản.
Thứ ba, về khắc phục một số bất cập trong thực tiễn: Bổ sung quy định đơn vị sự nghiệp công lập được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc nếu viên chức không đạt yêu cầu sau thời gian tập sự; sửa đổi quy định về hưởng trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm hoặc chế độ bảo hiểm thất nghiệp trong các trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc để khắc phục tình trạng lợi dụng hưởng các chế độ này khi chuyển công tác hoặc trước khi nghỉ hưu.